6. ĐỨC THƯỢNG TÔNG THANH
7. ĐỨC THƯỢNG AI THANH
&
6.1 ĐỨC THƯỢNG TÔNG THANH lai cơ.
7.1 ĐỨC THƯỢNG AI THANH lai cơ.
PHỤ LỤC
VỀ PHỐI SƯ THƯỢNG TÔNG THANH.
&
Giáo Tông Đường
4.8.Ất Hợi (1.9.1935)[1]
HỚN phong cựu kiếp tác binh thi,
CHUNG số Tiên ban nhứt lộ qui;
LY thế hưng vong vô sở luận,
Muội trần vấn thử kho ai bi.
THƯỢNG PHẪM.
Thăng
&
LÝ chánh hận vô
kế hóa dân,
THIẾT tâm tận
kiếp độ nguyên nhân.
HÒAI ân giáo
thiện Thiên thi định,
Nhược bất vi
quân bất phục thần.
QUYỀN GIÁO
TÔNG. Thăng ./. &
6.1 ĐỨC THƯỢNG TÔNG THANH lai cơ
THƯỢNG TÔNG THANH
Chào mấy anh lớn và
mấy em. Cười …
Tôi
đặng về cùng mấy cô Diêu Trì, ngày nay đặng đi chơi thiệt sướng quá! Tôi để cơ
lại cho ông Hòai. Thăng ./.
&
HÒAI tình nhớ bạn bấy lâu nay,
Mầng hiệp cùng nhau đặng một ngày;
Non nước ngày xưa nay cũng thế,
Dầu xa máu thịt dạ không sai.
Em chào mấy anh lớn. Em đến vì Cửu
Vị Tiên Nương mời. Xin nhượng bút. Thăng ./.
&
Động mây đầm ấm hưởng an nhàn,
Nhớ đám môn sanh tại nước Nam;
Cứu chúng tuy hay duyên trọng hệ,
Nhưng thương dân khổ giữa trần gian.
THANH SƠN ĐẠO SĨ
Chào chư Thiên vị.
Con
Phong Chí, Thầy đặng Cửu Nương mời hội yến nên đến gặp con luôn thể. Một lát
nữa, Thầy có điều nói chuyện với con. Thăng ./.
&
Nhơ bợn lợi danh đã hết mùi,
Nạn dân Tần khổ nhớ không nguôi,
Mặt trăng Cửu khúc bao nhiêu thảm,
Thì tấc lòng đây vẫn sụt sùi.
TIÊU DIÊU ĐẠO SĨ.
Trường công thấy bạn những xôn xao,
Nhớ đến tình xưa bắt nghẹn ngào;
Dặm thãm thương ai đương để bước,
Cõi Thiên êm dạ chịu riêng đau.
PHẠM VĂN MÀNG.
7.1 ĐỨC THƯỢNG AI THANH lai cơ
Lững thững tiếc khi bước ngập ngừng,
Đưa thân cửa Đạo chẳng nên thân;
Thuận tà đã chịu hơi nhơ lấm,
Phải mất Thánh phong, chịu vị Thần.
THƯỢNG
AI THANH.
HOA Tiên đổ đẹp xinh văn miếu,
Gót Tiên đưa yểu điệu nữ dung;
Cung Diêu ghé mắt thư hùng,
Reo tơ may gặp hội cùng tương tri.
NHỨT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
CẨM chức dệt câu biệt khách,
Bút Tiên vẽ nét tri hoan;
Xé mây lướt dặm trần hòan,
Dòm theo nổi khổ đôi hàng lụy sa.
NHỊ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
TUYẾN kim đưa khách chưa lòa,
Mượn gương bạch thố rọi nhà tri âm;
Ngân kiều cách bức bao lăm,
Ứơm buông lời ngọc hỏi trần vui
chưa?
TAM NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
GẤM Tô Hụê ngày xưa đề thảm,
Nét Tiên hoa sầu đạm vân phong;
Kìa thương những khách má hồng,
Đẹp xinh tô đậm bụi nồng thế gian.
TỨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
LIỄU yếu ớt những lo gió dội,
Có mãnh thân e nổi khổ thân;
Riêng lo tài sắc hồng quần,
Không nhơ bợn tục nợ trần lánh chơn.
NGŨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
HUỆ trí định Tiên phàm đôi lẽ,
Cửa không môn mới nhẹ tiền duyên;
Phất phơ đưa phướn diệu huyền,
Trông vơi thấy khách cửu tuyền rậm
chơn.
LỤC NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
LỄ kinh để mấy chương tiết nghĩa,
Vô tự đề cửa tía chứa hoan;
Trăm cay là phép tạo nhàn,
Có phong ba mới dựa hàng trượng phu.
THẤT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
SEN thì ở nơi hồ hóan trược,
Công thì hay định phước vinh ba;
Non thần nhắn bạn đường xa,
Đường tu khổ hạnh mới là cao siêu.
BÁT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
KHIẾT tính nết thanh liêm là trọng,
Phép tu thân nhớ bóng là hơn;
Chuông mai dập thức mê hồn,
Cung Tiên mới đặng rửa hờn kiếp
sanh.
CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG.
&
PHỤ LỤC
VỀ PHỐI SƯ THƯỢNG TÔNG THANH[2]
(Kỷ niệm 80 năm khai
phá, xây dựng Thánh Địa Tây Ninh)
Bên cạnh những
công lao to lớn của các Ngài Quyền Giáo Tông Thượng Trung
Nhựt, Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư, Phối Sư
Thái Thơ Thanh, bà Phối Sư Lâm Hương Thanh, bà Giáo Sư Hương Hiếu, v.v… trong
buổi ban đầu của nhà đạo độ dẫn nhơn sanh nói chung và hướng dẫn bổn đạo công
quả xây dựng Thánh địa, nhứt là người
đàng Thổ thuộc các dân tộc thiểu số, chúng ta không thể không nhắc đến chư vị
đã có công dịch Thánh Ngôn sang tiếng Miên như ngài Vương
Quang Kỳ, Vương Thành Tông v.v…
Ngài Phối Sư
Thượng Tông Thanh, ngoài công quả được Đức Chí Tôn ân ban dịch
Thánh Ngôn sang tiếng Miên và tiếng Hoa thì những công quả khác của Ngài Phối
Sư Tông cũng cần phải được hậu thế ghi nhớ.
1- Nửa tháng sau
khi Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo khởi sự, người đàn Thổ bắt đầu kéo đến Thiền Lâm
Tự, ngôi Thánh Thất đầu tiên của Cao Đài giáo. Lúc bấy giờ, mỗi ngày
đều có nhiều người đàn Thổ đến hầu đàn và xin nhập môn. Vì thế nhu cầu thông
dịch Thánh Ngôn từ tiếng Việt sang tiếng Miên trở nên cấp thiết. Khi đó có một
người Hoa đang làm ăn sinh sống ở bên Campuchia, ông này theo những người đàng
Thổ kéo về viếng nơi mà Sư Cả nằm mộng thấy Phật đã vào nước Nam. Và rồi ông
được Đức Chí Tôn điểm danh, trọng dụng vào ngày 19 tháng 11 Bính Dần 1926. Đó
là ông Vương Thành Tông, thuở trai trẻ đã từ Trung Hoa sang sinh sống ở Việt
Nam, lập gia đình với người Việt rồi sau đó sang Campuchia làm ăn cho nên ông
rành cả 2 thứ tiếng Việt và Miên.
Khi ông Tông liễu đạo, Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhật có nhắc
lại sự kiện này trong bài ai điếu Phối Sư Tông:
“Trước khi khép nấm mồ.
Tôi xin bày tỏ lai lịch của
Thượng Tông Thanh ngõ hầu ngày sau ghi trong Sử Đạo.
Hiền hữu
Thượng Tông Thanh sanh trưởng Trung Huê, Quảng Đông tỉnh, Triều Châu phủ. Vì
câu: Làm trai hồ thỉ tứ phương, nên thuở 18 tuổi trải qua Nam Việt, hồi buổi
ban sơ theo người đồng hương ở Chợ Lớn lập thân lần đầu. Nhờ tánh tình siêng
năng hay lo cần kiệm mới có tư bổn riêng, lên Soài Riêng khẩn đất sắm vườn lập
nên cơ nghiệp. Trời khéo đưa duyên kết Châu Trần người Nam Việt, sanh con, sanh
cháu thiệt đông, nhành quế nảy chồi chi lan đượm nhánh, phước hậu nhờ nhiều
cháu, nhiều con ít ai bì kịp.
Người Trung
Quốc mà lòng rất mến Nam, Thổ. Tánh tình độ lượng bao dung, ngoài xóm làng cũng
ngợi khen. Gặp người hèn ra tay tế độ, lòng hằng chẳng vạy chẳng tham, nên
người Annam và Cao Miên tôn lên làm Hương Cả. Giúp việc đình, việc miễu, tu
kiều bồi lộ chẳng tiếc công và của. Âm chất người đều bổ tứ phương, chí hào
kiệt qui dân lập ấp, lòng kia không ngớt, của tiền bù sớt cho anh em Nam Thổ như
thể đồng hương.
Tháng qua,
ngày lụn tuổi sáu mươi dư, lòng thiết thiết tư tư muốn tầm chốn u nhàn, tu tâm
dưỡng tánh. Nghe Gò Kén Thiền Lâm Trời khai Đại Đạo, lúc Hạ ngươn năm Bính
Dần, thiên hạ tứ phương dư ngàn cầu Đạo. Thầy giáng cơ kêu: “Trung, con
mời Vương Thành Tông vô đây Thầy dạy việc”. Tôi cùng mấy môn đệ của Thầy hồi đó
không biết kêu ai, nên tôi phải kêu lớn lên. Hiền hữu (Thượng) Tông (Thanh) mới
vào đàn nội. Tôi biểu trình giấy thuế thân và tờ Sớ thì rõ như tên của Thầy giáng
viết ra.”
Bà Hương Hiếu có ghi lại đàn hôm đó như sau:
Đàn ngày Jeudi 23
Décembre 1926 (19.11 Bính Dần) [1]
“Trung ! Con
cho một sắc dân rất yêu dấu của Thầy là người Thổ vào hầu nội.
Mời Tông … …
Tông – phải giải nghĩa cho chúng
nó nghe con.
Thi
Chơn Thần cửu biến giáo nhơn
gian.
Tịnh giả tâm thanh đắc lạc nhàn;
Nhứt kiếp “Như Lai” Kinh Phật
Tổ,
Nhị căn “Lão Tử” phẩm Tiên ban.
Tam nguơn chuyển thế truyền chơn
Đạo,
Khảo tánh trùng hoan độ khách
phàm;
Luyến ái hậu tình khuynh thủ
đảo,
Thâu hồi chủng tử thoát hồng trần.
… Thầy toàn thâu.”
Hôm sau, đàn
ngày Vendredi 24 Décembre 1926 (20.11 Bính Dần),[2] Thầy dạy tiếp:
“Thầy vui gặp các con … Cười …
Trung ! con
phải tính với Tông dịch Thánh Ngôn ra tiếng Thổ … nghe à.”
Dimanche 26 Décembre 1926 (22.11 Bính Dần)
“Toàn thâu: 91 Thiện Nam, 41 Tín
Nữ.
Vương Thành Tông, Hương Cả làng
Ba Vệt, S.R.”
- Hơn 3 tuần sau
khi lãnh nhiệm vụ công quả thông ngôn và phiên dịch
Thánh Ngôn, vào ngày 12 tháng chạp Bính Dần trong đợt Thiên phong mới, ông Tông
được Thầy ân phong cho phẩm Phối Sư phái Thượng.
Samedi 15 Janvier 1927 (12 tháng Chạp Bính
Dần)
Thái Bạch (…)
Phải nhập hội liền; phò loan cho
Thầy phong Thánh.
Ngọc Hoàng Thượng
Đế Viết Cao Đài
Giáo Đạo Nam Phương
Giáo Đạo Nam Phương
Các con,
(…) Tông, con
phải lo phổ độ nhơn sanh Trung Huê và
Cao Miên. Thầy phong cho con chức Phối Sư phái Thượng.”
Còn Đức Quyền Giáo Tông nhắc lại:
“Thầy thâu
hiền hữu (Thượng) Tông (Thanh) ở luôn tại chùa lo làm công quả. Nào làm thông ngôn
tiếng đàn Thổ, nào thâu sớ nhập môn, phát kinh sách, lo lúa gạo nuôi người tới
lui (…) Thầy mới phong Thượng Tông Thanh Phối Sư phái Thượng.”
Tiếp theo sau
đó, trong việc độ dẫn những người đàng Thổ, công của Phối Sư Thượng Tông Thanh
quá sức to lớn. Xin trích dẫn tiếp lời ai điếu để chúng ta mở rộng tầm hiểu
biết về công lao to lớn của một bậc tiền bối trong buổi đầu cực
kỳ gian khó. Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt viết tiếp:
“Đây qua năm
Đinh Mão lúc hạ tuần Thượng Ngươn, đất bằng sóng dậy. Trời đang thanh bạch
khiến ngút tỏa mây giăng, mối Đạo hằng mang ách nạn, nhà thoàn đòi đất chùa
phải trả mau mau vì có đơn vào chánh phủ. Bốn muôn dư đồ đệ của Đấng Chí Tôn
lòng dạ ủ ê, ngồi nhìn cảnh non sầu tuyết phủ, giọt lệ tuôn dầm, lo dời quả Càn
Khôn cốt Phật Tổ, Tòa Bát Quái, Tượng Ngũ Chi phải đem qua đất mới (về) Long
Thành nơi Đại Từ Phụ và Đức Lý đã chọn.
Hết lớp dời
chùa tới cường quyền áp chế, nếu kể hết truân chuyên khổ não thì hiền hữu
Thượng Tông Thanh đồng chịu ráo. Tôi nhớ lắm khi hết gạo, tôi cùng hiền hữu
Phối Sư Tông lo sắp lo ngửa đặng nuôi đạo hữu nhứt là Bắc Chiên và
Soài Riêng bị lụt. Tòa Thánh phải nuôi ăn hàng ngày trên hai ngàn miệng ăn.
Người hùng
anh, chí chẳng hề xao lảng, giữ một dạ thủy chung như nhứt, thương mấy hồi khốn
cực nhiều nỗi,...” [3]
Hành đạo được gần trọn 7 năm, Ngài
liễu đạo vào ngày 24 tháng 10 năm Quí Dậu (1933)
Khoảng 2 năm sau
khi liễu đạo, Ngài Thượng Tông Thanh được về đàn thăm viếng đạo hữu:
“Giáo Tông Đường, ngày 4-8 Ất Hợi
(dl 1-9-1935)
Phò loan: Hộ Pháp - Tiếp Đạo.
“Thượng Tông Thanh
Chào mấy anh lớn và mấy em. Cười .
. .
Tôi đặng về cùng
mấy Cô Diêu Trì, ngày nay đặng đi chơi thiệt sướng quá ! Tôi để cơ cho ông
Hoài. Thăng.” [4]
[1] Thứ năm 23-12-1926
[2] Thứ sáu 24-12-1926
[3] Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
[4] Thánh Ngôn Sưu Tập 2 bài số 8
&
[1] Nguyễn Văn Hồng, Thánh Ngôn Sưu Tập quyển 2, bài 8.
tr24.
[2] Biện khảo của hiền hữu Đạt Tường trong Đồng Tiến số
3.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét