14. ĐỨC GIÁC MINH KIM TIÊN
(MINH NIỆM) (1938)
&
14.1 ĐỨC CHÍ TÔN ân ban Thánh Sắc.
14.2 ĐỨC GIÁC MINH KIM TIÊN giáng cơ lần đầu tiên.
14.3 ĐỨC GIÁC MINH
KIM TIÊN giáng cơ MINH CHƠN ĐẠO.
14.4 ĐỨC GIÁC MINH
KIM TIÊN giáng cơ MINH KHAI HẢI NGOẠI.
&
14.1 ĐỨC CHÍ TÔN ân ban Thánh Sắc.
CHIẾU MINH THẢO LƯ ĐÀN, 01.11 Mậu Dần
(1938)
THI :
NGỌC
chiếu Nam Phương lố ánh hồng,
THƯỢNG
răn giắc đắc truyền tâm pháp,
ĐẾ bổn
qui hồi sắc tứ đông.
Thầy mừng các
con. Giờ linh Thầy giáng điển bố hóa các con tu hành mau thành tựu. Thầy ban ơn
chung.
Tu hành thì chờ
ngày đắc quả, cũng như trồng cây thì chờ lúc sanh hoa trổ trái. Biết như vậy
các con cứ bền lòng đi tới mãi, nài chi những sự trở gay là cơ tấn hóa. Các con
nên để ý và hiểu thì yên tâm.
Đàn nay Thầy ân
phong cho NIỆM là “GIÁC MINH KIM TIÊN”. Các con tiếp cầu Thầy
thượng ỷ.
TIẾP CẦU :
14.2 ĐỨC GIÁC MINH KIM TIÊN giáng cơ
lần đầu tiên.
THI :
GIÁC
khai chơn lý Đạo,
MINH
tánh thức cơ huyền;
KIM đơn tu phản chiếu,
TIÊN thể phản hườn nguyên.
Mừng chư hiền hữu. Đã cùng nhau chia cách bấy
chầy, nay trở lại vui vầy hỉ hạ. Về Tiên cảnh muôn ngàn thú lạ, nhớ tình xưa
bương bã xin về. Đường đạo đức dễ bề điều độ.
PHÚ LỐI VĂN :
Trời thanh tịnh cảnh Bồng Lai trăm hoa đua nở,
Kìa tòa sen vàng rực rỡ, nọ lần các chớn chở huy
hoàng,
Ngồi tịnh tâm trên chiếc bô (bồ) đoàn, tay lần hột
kim cang mà dưỡng an chơn như bổn thể,
Thoạt nhớ đến cuộc đời dâu bể, tai biến
trong buổi tuần hườn.
trong buổi tuần hườn.
Chạnh lòng từ bi thảm đời con, hằng giáng bút
khuyên lơn cho đời thức tỉnh,
Mượn điệu thi lối phú mà giải bày chơn lý Đạo
cho người ngâm kẻ vịnh,
cho người ngâm kẻ vịnh,
Hầu có chữa cái căn bịnh của kẻ tham nhiễm
cuộc hồng trần,
cuộc hồng trần,
Bắt cầu vàng nối nhịp sông Ngân, cho kẻ thế vời
chơn về chốn Bồng Lai Nhược Thủy.
Kẻ hữu căn hữu phước cùng suy cạn nghĩ, khá lập
chí lo tu luyện cho kịp hội kỳ,
Long Hoa vốn là trường thi để chọn trang tu mi Đạo
Đức cả.
Người thượng trí có rõ câu nhơn quả, mau lo trả
đặng có
bươn bã về cõi U nhàn.
bươn bã về cõi U nhàn.
Cảnh tạm này mai thảm chiều than, sao bằng chốn
Niết Bàn hư vô tịch diệt.
Niết Bàn hư vô tịch diệt.
Phép Đạo vốn hư hư thiệt thiệt, phải chí tâm
mới biết đá vàng.
mới biết đá vàng.
Đạo Cao Đài độ khách Nam Bang, thuyền Bát Nhã
rước trang chí đức.
rước trang chí đức.
Gươm trí huệ đêm ngày ra sức, mài cho thông mà
đoạn dứt oan nghiệt buộc ràng.
Cửa Huỳnh Kim lui tới dễ dàng, non Khứu lãnh
ở an ngày Phật.
ở an ngày Phật.
Người tu nhờ gặp nhiều cảnh éo le mới sửa đặng tánh mình. Vậy khá hiểu mà
dè dặt, dầu gặp cảnh ngộ khó khăn buồn bã mà chẳng cho là khó là buồn tức là
dứt đặng tánh phàm tục. Gặp cảnh nghịch chớ cho rằng nghịch, nên lấy ơn mà báo
oán, mới gọi đứng trượng phu, người quân tử.
Ban ơn chung chư
hiền hữu. THĂNG./.[1]
&
14.3 ĐỨC GIÁC MINH KIM TIÊN giáng cơ
MINH CHƠN ĐẠO[2]
HUYỀN DIỆU ĐÀN, Mẹo
thời, 23.5 nhuần Nhâm Thìn (1952)
THI :
GIÁC thế độ đời cứu kẻ nguy,
MINH khai “Huyền Diệu” ít ai bì;
KIM đơn thuốc báu cho người khổ,
TIÊN vị đắc thành lúc hội thi.
BÀI :
Lúc hội thi đến đây giúp sức,
Được cho hiền mau thức tánh tâm;
Điển Tiên khuyên rán
chú chăm,
Tiếp cho trọn vẹn kẻo lầm ma vương.
Đời cùng tận hiền đương phận sự,
Khuyên người đời kinh sử phát ra;
Được cho sanh chúng
cải tà,
Mau mau hối ngộ theo mà Phật Tiên.
Nhiều kẻ muốn, vô duyên không
được,
Tại sao hiền được phước như vầy;
Bởi hiền âm đức rất
dầy,
Nên Thầy mới chọn điển rày cho vô.
Để cứu những tín đồ lầm lạc,
Kệ, sám, kinh phân phát cho xem;
Đặng cho họ khỏi lấm
lem,
Khí tà bao phủ khó đem trở về.
Vậy khuyên hiền trọn bề chung
thuỷ,
Phải gia công kinh sử tiếp nghinh;
Gần đây một buổi bình
minh,
Thầy ban ân huệ mới kinh thế trần.
Đàn hôm nay cạn phân minh bạch,
Đặng cho hiền gọt sạch nợ trần;
Sau đây thấy rõ lần
lần,
Chư Tiên Thánh Phật đến gần thức
mê.
Khi thấy được chớ ghê, chớ sợ,
Phật Tiên thương nhắc nhở công
trình;
Nên cho thấy rõ dạng
hình,
Hầu mong tiếp điển sử kinh châu toàn.
Ta hôm nay lâm đàn chỉ bảo,
Khuyên hiền nghe chu đáo lời ta;
Hiền đừng có tưởng
rằng ma,
Nó đâu gần được hiền là trò Tiên.
Tới đây dứt đoạn
trường thiên,
Dạy hiền phận sự cung
Tiên ta về. Thăng ./.
o
14.4 ĐỨC GIÁC MINH KIM TIÊN giáng cơ
MINH KHAI HẢI NGOẠI.
Ngọ thời, 13.10 Nhâm
Ngọ (17.11.2002)
THI :
CAO điểm thật rành nét chữ quên,
Trong ngoài quên được hướng ĐÀI
TIÊN;
Bâng quơ vọng lự ÔNG quên hết,
Nhờ vậy, trống lòng Đạo mới nên.
CAO
ĐÀI TIÊN ÔNG, Thầy các con, Thầy mừng chung các con.
Thầy
chứng lòng thành của các con, ban hồng ân cho mỗi con để các con thủ
thường lạc đạo, cho càng vững bước hướng về nguồn.
Thầy
miễn lễ các con khá an toạ và tịnh tâm.
Này
các con! Phàm hễ muốn còn có vật chi, thì phải chú tâm, chú ý đến vật ấy. Các
con tu tâm có cái tâm chơn cần gìn giữ. Mà muốn cho sự chú tâm, chú ý được hoàn
chỉnh và có hiệu quả nhất, thì cũng phải ít nhiều hay trọn vẹn quên cho được
các việc khác. Đạo ở trong thân, thì các việc đó … phải là trong và ngoài thân
vậy! Khá nghiệm!
Đàn
nay, Thầy cho chơn linh của MINH NIỆM tá cơ. Các con khá đón mừng và nghiêm
tịnh tiếp điển. Thầy ngự ỷ.
TIẾP ĐIỂN:
THI :
Ý lặng, tâm
bình dưỡng Tánh linh,
GIÁC chơn, MINH
Đạo sửa thân mình;
KIM TIÊN, Cổ
Phật gìn thanh tịnh,
Vô niệm, chánh
trung thoát tử sinh!
Huynh, MINH
NIỆM viếng thăm và chào mừng chung chư hiền đệ và chư hiền muội. Này chư đệ
muội! Hãy miễn lễ và tịnh tâm.
Thầy
trên đã ban ơn, nên chư đệ muội đã đồng tâm chung sức gầy dựng được Đàn hội tại
gia.
Tiểu
thiên địa giống nhau, mà cũng rất khác xa nhau.
Huynh
muốn nói chư đệ muội rất khác biệt nhau về phương diện tầm mức của hạnh đức mà
người tu chơn cần phải có.
Đàn
là nơi thể hiện tinh thần lữ hành giữa bạn đạo đồng môn. Vậy chư đệ muội khá
cởi mở để tiếp nhận nhiều duyên lành, nhân tốt cho sự Học Hữu, để cùng học tập
lẫn nhau, lo un đúc sao cho mức độ tánh đức tu chơn của mình ngày càng thêm
thanh cao, thì huệ tánh mới có phần dễ ngời rạng hơn.
Dĩ
nhiên, đối với khuyết điểm giữa nhau, thì hãy tuỳ duyên đi! Nếu đệ muội cảm
không đủ khéo léo, tế nhị, thì khá bình tâm tưởng đến Thầy, để Thầy trên lo
liệu!
Lại
nữa, tuỳ căn cơ của Đàn và tuỳ huệ duyên của mình, chư đệ muội đã hưởng ít
nhiều ân điển của Thầy.
Ở
đời, sự hiểu biết đã giúp một người được thành công, thì với đạo cũng vậy. Qua
lời khuyên, nhắc nhủ của Thầy khi Thầy ban điển lành, thì chư đệ muội mới ngày
càng thêm thấm nhuần với lý Đạo tu tâm, bước về nguồn mới càng thêm vững chắc.
Để
Huynh chúc chư đệ muội :
THI :
Mừng đệ muội thường họp tại gia,
Tưởng Thầy, tu hội, học ôn hoà;
Nhịn nhường, đoàn kết, hành tương
trợ,
Dìu dắt lẩn nhau tập vị tha.
Chư
đệ muội, thi trung hữu ý, nhớ ba chữ : học, hành, tập. Đọc lại bốn câu thi của
Thầy!
Đàn
nay, Thầy đã nhắc việc phải quên đi, thì huynh tiếp theo như sau: Hãy nghe…
THI :
Nên Đạo cũng
nhờ biết nhớ quên,
Nhớ quên cho
được cội căn phiền;
Nhớ quên mừng,
giận, vui, buồn, muốn,
Là dẫm dấu mòn
đến Phật Tiên!
HỰU :
Phật Tiên mãi
nhớ quên nhơn dục,
Chẳng được quên
dằn thâu thất lục;
Chẳng được niệm
trong lẫn dính ngoài,
Thì anh nhi mới
hườn qui phục.
Này chư đệ
muội!
Thế
nhân thường nói nghe thấy chi rồi động tâm, hay thấy cảnh lại sanh tình. Đó là
cái tâm lay động, lung lay, không còn an định nữa, thì cái ý liền xẹt nhanh ra
để xô xúi mấy căn khác thi đua mà ứng mãi với cảnh ngoài. Lục dục dấy động thì
thất tình cũng lộng hành, dục và tình tương trợ phủ thêm nhiều lớp vô minh trên Anh nhi, Linh tánh, thì
lụy đời cứ triền miên tiếp diễn!
Ngoài
ra, bất cứ lúc nào, ngay lúc toạ thiền, nếu chẳng rình rập cái ý, thì vọng ý liền
nhảy ngược về tung tăng trong cảnh nào của quá khứ, lăng xăng so sánh, phân
biệt, biện phân ở hiện tại, hay lại mơ mộng xây dựng tương lai. Cái ý đã buông
lung, vọng niệm càng chuyền nhau mà tuông trào, thì trong thân là thảm dạ cuốn
nhăn, ao lòng nổi sòng, tâm nào còn phẳng lặng trống không?
Cho
nên, tu tâm là bền chí học tập quên dính ngoài và quên vọng lự trong, có nghĩa
là đọan trừ nhơn dục đó! Hãy nghe :
THI :
Gìn giữ ý tâm,
tâm ý còn,
Ý còn đằm thắm,
tánh chơn còn;
Tâm còn trống
vắng chơn nhơn hiện,
Và chủ nhơn ông
dạo đỉnh non.
Chư
đệ muội, khá đọc Chốn Bồng Lai để cung tiển Sư Phụ và trợ thần cho đồng tử.
(Đọc đến câu Giọng đờn thấp thoáng dựa tai đưa vào…)
BÀI :
Vào đơn phòng cách ly
thế sự,
Để tập quên các thứ
rộn ràng;
Cho lòng đở bớt đa
mang,
Âu lo, toan tính,
ngổn ngang nỗi niềm.
Thường ngày cứ tập
quên bốn buổi,
Tháng ngày qua lần
nguội đời hơn;
Ví như quên được giận
hờn,
Thì đường mòn hẹp đã
hơn nửa rồi.
Thiền xong, trở lại
đời sinh sống,
Nghiêm cẩn gìn tâm
vọng, ý hoang;
Dầu cho cảnh thế đa
đoan,
Dạ càng bình tỉnh,
lòng càng công minh.
Dạ công chánh, lòng
minh linh mẫn,
Dễ đón rào, ngăn chận
dục tình;
Không cho chúng khuấy
sự tình,
Ngoài thân bớt bụi,
trong mình trống hơn.
Mừng, giận, muốn,
vui, buồn kềm được,
Được một lần thì được
hai lần;
Dần dần ý được thục
thuần,
Hàm dưỡng thì được
tâm an lạc nhàn.
Thói quen cũng hai
đàng thiện ác,
Chỉ vì do tập tác mà
nên;
Tu tâm trước rõ dữ
hiền,
Tháng năm dài mới như
nhiên đạo thành.
Mời đệ mụoi rượu lành
hoan ẩm,
Gìn đàn cho phước ấm,
điển minh!
Bần Đạo ban
ân chung. Thăng ./.
o
[1] Đại Thừa Chơn Giáo, bản song ngữ Việt Pháp trang
474-478 (1950).
[2] NGỌC ÂM CHƠN TRUYỀN, Quyển 2, tr.71-72
0 nhận xét:
Đăng nhận xét