
19. ĐỨC THẦN NỮ NGUYỄN THỊ NGẠI.[1]
(1964)
&
19.1 ĐỨC THẦN NỮ NGUYỄN THỊ NGẠI lai
cơ
Phước Thiện, ngày 15.3.ĐĐ 38 (1964)
Thi :
Lòng thành THỊ hiện ở hôm
nay,
Hơn thiệt NGẠI chi chẳng bảo
bày;
Muốn được THẦN hồn cho thanh
khiết,
Đường tu NỮ
sĩ phải mê say.
&
Mê say mùi đạo mới về Thầy,
Thế sự nhơn tình phải lãng khuây;
Cuộc thế mấy ai muôn tuổi sống,
Mà lo danh
lợi suốt đêm ngày.
Nữ
Thần chào chư hiền huynh Thiên ân phận sự và chư hiền tỷ, hiền muội
nội đàn.
Hôm
nay Nữ Thần may mắn được lịnh Ơn Trên ghé về đây để tỏ tấm lòng thương nhớ
nhau, một cơ hội rất hiếm có. Hồi tưởng lại thời gian qua, nghĩa là khi tôi còn
chung sống với chị em, xét ra phần tu học tôi còn kém hơn chị em nhiều, rất
tiếc và cũng rất rủi ro cho tôi là khi đó nền chánh pháp tâm truyền vô vi trung đạo chưa thị hiện, dù có muốn
cũng không làm sao có được. Thầy Mẹ chỉ tương công chiết tội,
thấy tôi có lòng trung trinh,
có một đức tin mạnh mẽ,
một công quả ít nhiều,
nên cho vào hàng Thần Nữ, nhưng vẫn còn ở trong vòng
sanh tử, làm sao được như anh chị em chúng ta ngày hôm nay. Bởi sự chí thành và
lòng từ bi của Thầy Mẹ
cho về cơ để lập công và cũng nương theo luồng điển chung
của chư huynh tỷ để dồi luyện chơn thần.
Này
quí chị em ôi! Đời là giấc mộng có chi đâu, thân con người sanh ra dù giày hay
nghèo, sang hay hèn có mấy ai mà thóat ra ngòai vòng tứ khổ. Nếu biết tu hành sống trong nền
đạo đức thì mới thấy bao nhiêu công việc ở đời là gỉa tạm phù vân. Người
chưa giác ngộ họ cho đó là thiệt, suốt đời họ đem cả tài năng trí lực mà phụng
sự cho cái giả, đến khi ma tử thần dẩn dắt thì mới ô hô cuộc thế dã tràng, dù
chồng đẹp con yêu nhà cao cửa rộng, vàng bạc đầy kho cũng không sao đem theo
một mảy được. Đã thế mà linh hồn còn gây ra tội lỗi ác nghiệp phải
bị quả báo luân hồi làm ma làm quỷ, làm súc vật đời đời, khó có ngày mà trở lại
với con người như chị em chúng ta ngày nay.
Tôi
được lịnh Ơn Trên chia cắt cho một phận sự để lập công là gần gũi hiền tỷ, hiền muội để
đem những lời chỉ huấn của Ơn Trên mà trao truyền lại, tôi đến với chị em không
ngòai tấm lòng thương yêu nhắc nhở. Bao nhiêu lời đã tỏ bày
mong quí chị em ghi nhớ, tôi đã được phép chung góp với chị em về công việc xây dựng tình thân hữu và nền sơ bộ
đại đồng.
Bài :
Nền sơ bộ
đại đồng xúc tiến,
Hỡi chị em
cùng nguyện thi hành;
Cùng nhau chung sống đường lành,
Xây mình,
dựng bạn cho thành mau lên.
Đại đồng xã xây nền dựng móng,
Chị em mình chóng chóng chung lo;
Dù cho phải lúc gay go,
Bước lên, một dạ lần mò bước đi.
Chớ ngại ngùng gian nguy khó nhọc,
Ấy chẳng qua bài học luyện mài;
Khuyên cùng tất cả ai ai,
Hư nên nhắc nhở
quấy sai bảo bày.
Khuyên đừng có
ỷ hay chê dở,
Phải cùng nhau
nâng đở dắt dìu;
Cho nhau với những tình yêu,
Dầu chi chi
cũng nâng niu đở đần.
Mỗi người đều
bản thân xây dựng,
Lo làm sao hiếu
thuận cho tròn;
Gia đình trọn nghĩa dâu con,
Hữu bằng lân ấp
nước non đượm tình.
Sao cho được
đẹp xinh cây Đạo,
Sao xứng người
thọ giáo kỳ ba;
Đã đồng một Đạo một Cha,
Chị em ta phải
ruột rà với nhau.
Trong một Đạo
nghèo giàu chia sớt,
Một cộng rau
trái ớt cũng chia;
Nhắc nhau dậy sớm thức khuya,
Trên đường tu học chớ lìa chớ lơi.
Bớt lần lần
thói đời hư tệ,
Đường về Trời
chớ trể tràng nghe;
Có công có quả đừng khoe,
Dại khôn ta
cũng chở che bảo bầy.
Chớ đừng có khi
say khi tỉnh,
Hễ tu hành phải
tịnh phải an,
Chớ cho danh lợi buộc ràng;
Thị phi xáo lộn
tâm cang đảo huyền.
Chị em đã gặp
duyên gặp phước,
Thì phải lo đón
rước vào mình;
Người nào lơ đễnh coi khinh,
Thời cơ đi mất
đời mình tiêu vong.
Kẻ gánh vác làm
xong phận sự,
Phải hết lòng
chăn giữ đàn chiên;
Hể làm nắm lấy pháp quyền,
Không tròn
trách nhiệm tiền khiên tội tình.
Không chỉ những
thân mình chịu khổ,
Mà cửu huyền
thất tổ chịu lây,
Lỗi lầm khuyên chớ chuốc gây,
Chuốc gây tội
lỗi, Mẹ Thầy khó thương.
Chị em đã sẳn
đường cứu độ,
Mỗi người đều
có chỗ dựa nương;
Đường nầy thẳng đến Tây phương,
Từ đây ta bạn
níu nương thẳng về.
Tôi mãi
mãi được gần gủi chị em, nhưng đã đến giờ Đức Quan Âm Bồ Tát nhập cơ. Vậy chị
em hãy thành tâm thủ lễ để đón rước, tôi xin phép xuất cơ.
&
Tiểu sử Thần Nữ NGUYỄN THỊ NGẠI.
Bà
Nguyễn Thị Ngại sinh năm 1906 tại xã An Khê, nay (2008) là phường An Khê, quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẳng. Con cụ ông Nguyễn Hữu Thêm và cụ bà Hùynh Thị
Mùi, một gia đình nho học truyền thống.
Lúc 12
tuổi (Mậu Ngọ 1918) bà lâm trọng bịnh, ông bà thân lo thuốc thang điều trị. Lúc
khỏi bệnh, bà bị câm không nói được, chỉ ăn nằm một chỗ ít đi lại. Nhưng lạ là
thân thể bà ngày phương phi mập mạp, sắc diện ngày càng tươi trẻ hồng hào. Bà
con chòm xóm lấy làm ngạc nhiên, tiếng đồn ra ngòai làm cho nhiều người hiếu kỳ
rủ nhau lại xem rất nhiều. Lúc ấy có ông bác Di, người Đại Lộc, là lái buôn tơ
tằm thường xuống nhà thân phụ của bà Ngại mua tơ, nghe lời đồn cũng đến thăm
cho biết thực hư. Ông cầm hai tay của bà lúc ấy cảm thấy mềm mại dịu dàng, vẻ
mặt thì phong lưu quí phái. Ông ta bảo rằng: “Nếu như cô này nói được và mai
sau có chồng sanh con rất là thông minh”.
Cho đến
đêm 19 rạng ngày 20 tháng 02, là ngày kỵ cơm cho ông thân bà. Bà nằm chiêm bao
thấy ông thân về có dẩn theo một người đàn bà rất thùy mị đến chỗ bà nằm và
viết trên miệng của bà hai chữ gì không rõ. Liền đó bà giật mình thức dậy kêu
lớn tiếng : “Cha ơi! Cha ơi! Cha ơi!
Mẫu thân
của bà cùng mấy chị em nghe la, chạy vào hỏi. Sau khi nghe bà kể lại ai nấy đều
vui mừng hớn hở, trầm trồ bàn tán đó là Thần Tiên đến khai khẩu, thật là ơn
phước cho gia đình. Như vậy từ khi bà bị câm cho đến khi nói được là 9 năm tức
năm Bính Tý (1936).
Sau đó
ông Khóa Thông làm giáo học, bạn thân với ông Nguyễn Hữu Trân (Hòa Phát Đường,
là em ruột của bà), đến hỏi bà làm vợ. Bà từ chối và xin thân mẫu đi tu.
Bà nhập
môn cầu Đạo tại
Trung Thành Thánh thất năm Đinh Sửu (1937). Sau lễ nhập môn, bà về nhà xin thân
mẫu xuất gia ở chùa lập công tu học. Khi về
ở Thánh thất, bà đảm trách việc quản lý lương thực, trù phòng, tiếp tế, nấu ăn,
đi chợ và tiếp đón đạo hữu xa gần về lập
công.
Công quả
lớn và nổi bật của bà là vào những ngày lễ khánh thành và đại hội Vạn Linh có
cả hàng ngàn người mà bà vẫn chu tòan trách nhiệm. Tiếp đến Hội Thánh thành lập Cửu viện, các anh lớn, chư
chức sắc chức việc các nơi về lập công xây dựng các cơ sở Cửu viện, nhất là
cơ quan Học viện có khỏang 200-300 học viên về học văn hóa và giáo lý. Thế mà bà vẫn vui vẻ lo nấu nướng
tiếp đãi chu tất.
Năm
1942, Thánh thất bị đóng cửa, các Anh lớn bị cầm tù, chư chức sắc bị thực dân
khủng bố. Chỉ còn bà và bà Cử hằng ngày tu học cầu nguyện, không hề nao núng chí tu.
Mãi đến
27.11.1946 (Bính Tuất), Pháp tái chiếm Đà Nẳng, tất cả đạo hữu đều tản cư lên sở nông Hội thánh ở Tý
sé, thuộc huyện Quế Sơn. Riêng đạo tỷ Nguyễn Thị Ngại nhất quyết nguyện ở lại
giữ Thánh thất mặc dù anh em hết lòng khuyên nhủ. Đau đớn thay! Nơi đây là nơi
giao chiến giữa hai bên, đạn pháo đã làm sụp đổ hòan tòan ngôi thánh sở nguy
nga tráng lệ thuở ấy, đạo tỷ Nguyễn Thị Ngại đã tử nạn!
Ngày 15.3.Giáp Thìn (1964), Ơn Trên cho đạo tỷ về cơ. Qua
bài thi tứ tuyệt, đạo tỷ đã xưng danh và quả vị là Thần Nữ, đồng thời có ý khuyến tu
cho nữ phái.
Theo đàn
cơ cho biết lệnh Diêu Cung cho đạo tỷ Nguỹên Thị Ngại về để hộ trì cơ đạo nữ
pháiThánh Thất Trung Thành.
o
[1] Đạo Mạch Lưu Thông, “kỷ yếu 70 năm công
khai cơ Đạo tại miền Trung” tr99.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét