ĐỨC BẮC THIÊN MÔN ĐẾ QUÂN
(TRƯƠNG DUY TỎAN)[1] (1957)
P
P
23.1 ĐỨC CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ ân ban Thánh Sắc.
Long Ẩn Đàn, tý thời 01.7.Đinh Dậu (28.7.1957)
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ, CHƯỞNG GIÁO THIÊN TÔN đại hỷ chư
môn đệ.
THI :
Danh cao lợi cả ở trần gian,
Không sánh non Tiên một chữ nhàn;
Vô lự, vô ưu, thong thả trí,
An nhiên, thanh
tịnh, dưỡng thần quang.
Thầy
miễn lễ, các con an tọa.
Người học Phật, tu Tiên cần giữ đúng
theo chơn truyền chánh pháp là : trong luyện ngòai trau, bền tâm trì chí, lâu ngày
mới đặng họat bát huyền cơ, trì kim hóan cổ.
Điều cần yếu của sự tu luyện là phải
để tâm cho thanh tịnh, phẳng lặng như nước đựng trong bầu thì minh châu kết tụ, rồi tứ
thời lo điều dưỡng lần lần mới sản xuất anh nhi, gia công luyện hình mới đặng
xuất ly khổ hải.
THI:
Đạo chia ba bực,
thế hai đường,
Bí pháp tương
truyền khắp bốn phương;
Chọn kẻ hồi tâm tu
khẵc kỷ,
Lựa người tỉnh
ngộ, luyện chơn dương.
Bến mê xa lánh
điều vinh nhục,
Bờ giác lần lên
hưởng bạn bường.
Một kiếp tu thành
danh rạng chói,
Muôn thu, tên đứng
bộ Tiên hương.
Thầy chứng lễ kỉnh dừng và lòng
thành nguyện của các con đàn nay. Vậy Thầy từ bi cho biết : TỎAN cũng dày công học
tập Đạo THẦY, cho nên đến ngày viên mãn, Thầy thâu về Tiên cảnh, phục vị nơi
Thiên môn. Thầy giải rành cho các con hiểu : ở vào thời kỳ thưởng phạt hiện
tại, tứ vị Đế Quân trấn giữ bốn phương trời đều đặng gia tăng cấp bực; bởi vậy
trước kia Thầy đã thâu HÙYNH về trấn giữ Nam phương vời danh hiệu là “NAM THIÊN
MÔN ĐẾ QUÂN” làm đầu trong bốn vị Đế Quân tương lai; rồi mãi đến ngày nay THẦY
mới thâu TỎAN về trấn giữ Bắc Phương với danh hiệu là “BẮC THIÊN MÔN ĐẾ QUÂN”. Vậy Thầy hạ lịnh cho giáng điển đàn trung để cùng các con nhứt
hội ngộ. Các con TIẾP CẦU, THẦY thượng ỷ.
TIẾP CẦU.
23.2. ĐỨC BẮC THIÊN MÔN ĐẾ QUÂN giáng cơ
lần đầu tiên.
THI
:
BẮC Ba nay đã mãn
niên kỳ,
THIÊN ý định rồi,
Lão phải qui;
MÔN thượng vào ra,
chầu Thánh Chúa,
ĐẾ QUÂN, thanh sử,
đặng tên ghi.
Lão đắc lịnh giáng điển đàn nay,
trước để lời chào mừng tất cả bạn đồng đạo tri âm còn ở thế, rồi kế đó, Lão để
lời cảm tạ ân thâm và nghĩa trọng của chư hiền huynh đệ và tỷ muội đối với Lão
lúc còn tại tiền, cúng như cơn quy liễu. Lão mời chư hiền hữu an tọa.
Từ ngày dứt bỏ đặng xác tục rồi, hồn
Tiên rất khoan khóai chốn non linh cảnh báu, rồi thầm nghĩ lại : cuộc đời như
giấc mộng hùynh lương, bèo mây tan hợp. Kiếp làm người phải trãi qua biết bao
nhiêu phen thạnh suy biến chuyển, vinh nhục đổi dời, chẳng khác nào bức tranh
vân cẩu Thiên hình vạn trạng, thay đổi liền vo, chẳng có chi bền bĩ cả. Thế mà
người đời, chẳng mấy kẻ biết hồi tâm tự tỉnh để lánh tục tầm Tiên, tức là tầm
cơ siêu phàm nhập Thánh, cũng chỉ vì tại quá ư tham luyến bã đỉnh chung trần
nên để cho mồi lời danh câu nhử, rồi kẻ thì cứ thao túng trên đường danh còn
người lại cứ miệt mài trên nẻo lợi, đặng có đào tạo tội tình, gây câu nhân quả,
trả mãi không rồi, luân hồi chẳng dứt. Nhắc đến chữ danh thì ở vào thời kỳ lọan
ly khốn khổ, đâu cõ những chữ danh chánh đáng cao thượng. Chỉ có những danh nhơ
nhuốc, đào tạo trên sự giết chóc lẫn nhau, xây đấp trên sự mưu hại lẩn nhau.
Còn bàn qua chữ lợi thì gặp lúc đời
khuynh nguy tàn tạ, Thiên hạ cạnh tranh nhau để giựt dành sự sống thì có rất ít
điều lợi liêm khiết, trong sạch còn phần nhiều chỉ là cái lợi bẩn thỉu, thâu
thập trên giọt mồ hôi nước mắt của sanh chúng đồng bào. Như vậy thì đường danh
cũng đáng khinh, còn nẻo lợi cũng đáng bỉ, thế mà hầu hết nhân lọai trên quả
địa cầu đều tham luyến, chuộng ưa và mê mết mới là óai oăm, cay nghiệt cho chớ.
Bài
:
Hồi tưởng lại ngày
còn ở thế,
Cũng ghe phen khó
dễ trãi qua;
Cũng
mưu, cũng kế vậy mà,
Cũng toan vùng vẩy thóat ra hồng trần.
Trót đã lỡ mang
thân phàm tục,
Phải chia vinh,
sớt nhục với đời;
Rủi,
may do ở số Trời,
Người đâu đủ sức đổi dời sông non.
Trá ngoa lắm hao
mòn âm chất,
Tính toan lo, đặng
thất nào hay;
Luật
Trời báo ứng không sai,
Làm người tua khá dồi mài điểm linh.
Chữ đạo đức trung
trinh tiết liệt,
Thiệt một đời, vui
miết ngàn thu;
HUYÊN
đường hưởng phước thanh u,
Nhờ công khổ hạnh,
luyện tu đạo Trời.
GIỎI là biết tỉnh
thời ngộ thế,
MẪN đạt thông,
thức lệ vẹn gìn;
TRUÂN
lòng nay đặng hồi minh,
Phước hồng thấm nhuận, HÙYNH Đình luyện
phanh.
NHƠN ĐỨC hầu lưu
hành vạn ĐẠI,
TRUYỆN kinh
truyền, hòa giải môn sanh;
TIỀN
căn TẤN bước đường lành,
LỘC Trời ban bố, phước thanh hưởng nhờ.
MẬU rõ đặng huyền
cơ đạo pháp,
DĨ tuân hành, phù
hạp luật công,
NỮ
lưu đạo đức phổ thông,
CÚC hoa CẨM tú xuân phong nhẹ nhàng.
&
Đây luận qua gia đàng thế tục,
Muốn ngày sau hưởng phước Trời dành;
Nay lo lập chí tu hành,
Lánh đường thế chấp, tử sanh luân hồi.
THI :
Điển lành sư phụ tứ gia ban,
Đạo hữu nữ nam, nội bửu đàn;
Bả trảng bồ đào cam giá tửu,
Chung vui hoan ẩm, huệ minh quang.
Lão kiếu chư hiền hữu. Thăng.
&
[1] Ông Trương Duy Tỏan lúc sinh thời là một
nhà cách mạng, thường bôn ba hải ngọai, lắm phen vào tù ra khám. Lúc trở về
già, nhập môn Cao Đài, tu đặng trên hai mươi năm thì liễu đạo.
Bửu tháp ở Chiếu Minh nghĩa địa Cần Thơ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét