ĐỨC NGÔI HAI GIÁO CHỦ - NGÔ ĐẠI TIÊN

antruong.free.fr


1. ĐỨC NGÔI HAI GIÁO CHỦ

(NGÔ VĂN CHIÊU - MINH CHIÊU - NGÔ ĐẠI TIÊN – PHÁP BỬU ĐẠI TIÊN).

&
1.1. HỘI THANH TÂN (1933).
1.2. Kinh Chúc Tụng ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN (1933).
1.3. HỘI THANH CHIÊU - LỄ LẬP VỊ NGÔI HAI (1934).
1.4. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ HỘI THÁNH
TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI (ĐÀ NẲNG)
(1956).
1.5. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ CƠ QUAN
PHỔ THÔNG GIÁO LÝ
ĐẠI ĐẠO (SAIGON) (1966).
1.6. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
HỘI THÁNH TIÊN THIÊN
(BẾN TRE) (1967).
1.7. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ HỘI THÁNH TRUNG ƯƠNG TAM QUAN TRUNG VIỆT (BÌNH ĐỊNH) (1973).
1.8. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN dạy trong CHƠN LÝ HIỆP TUYỂN về “HÀNH ĐẠO VÀ TỊNH LUYỆN”
(LIÊN HOA ĐÀN) (SAIGON)
1.9. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
VĨNH NGUYÊN TỰ (CẦN GIUỘC, LONG AN)(1974).
1.10. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
GIÁO HỘI CAO ĐÀI THỐNG NHỨT

(TAM THANH BỬU ĐIỆN
, LONG AN)
1.12 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ MINH ĐỨC TU VIỆN (VŨNG TÀU)
1.13 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
TÂYTHÀNH THÁNH THẤT (CẦN THƠ)
1.14 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
CHIẾU MINH ẨN GIÁO (CẦN THƠ).
1.15 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ CAO ĐÀI HỘI THÁNH (DƯƠNG ĐÔNG, PHÚ QUỐC).
1.16 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ MINH CHƠN ĐẠO
NGỌC ÂM THÁNH TRUYỀN       QUYỂN 2, tr.72-73
1.17 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
MINH KHAI HẢI NGOẠI
1.18 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
CAO THƯỢNG BỬU TÒA
1.19 ĐỨC NGÔ MINH CHIÊU, PHÁP BỬU ĐẠI TIÊN giáng cơ HỘI THÁNH TIÊN THIÊN,
k

1.1.HỘI THANH TÂN, CAO MINH ĐÀN,
(VĨNH HỘI, SAIGON)
[1],

Đêm 19 - 20 tháng 8 Quí Dậu (08-09.10.1933)[2]
Chào chư Mạng Lịnh,
THI :
Thập niên giáo hoá, bát niên thông,
Nhứt cú Thánh ngôn tánh liễu đồng;
Chưởng lý tâm chơn cơ đại trí,
Khẩu truyền tự ngộ phát Thiên công.
            Lão vâng lịnh ĐỨC CHÍ TÔN cho chư Mạng Lịnh hay: giờ nầy Công Tào Đại Hội, Tam Giáo giáng cho Kinh Chúc Tụng NGÔ ĐẠI TIÊN, vậy chư Mạng Lịnh thành tâm. Lão kiếu.
&

1.2. KINH CHÚC TỤNG ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN.

TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ
            Bần Đạo chào chư môn đồ.
Cúi đầu mừng ĐỨC ĐẠI TIÊN,
NGÔ MINH CHIÊU tánh ở miền trần gian;
Thiên ngôi NGỌC ĐẾ sắc ban,
Điễm linh cho xuống thế gian cứu đời.
Gieo truyền Đại Đạo khắp nơi,
Cứu nguy sanh chúng biết thời Tam-Ngươn.
Mãn căn NGỌC ĐẾ ban ơn,
ĐẠI TIÊN Ngọc Sắc [3] Thiên ân rõ ràng.
Thăng.
Ngã THÁI THƯỢNG ĐẠO QUÂN.
            Chào chư môn đồ.
Tam Thanh chưởng hội thế gian,
Long Hoa sắc lịnh Đạo tràng độ an.
Phong Thần lãnh mạng Thánh Hoàng,
Trừ tà khử mị Thiên phang đả Thần.
ĐẠI TIÊN xin độ nguyên nhân,
Trở về cựu vị lo phần chơn tâm.                                                                                              Thăng.
            Ngã KHỔNG THÁNH TIÊN SƯ.
            Chào chư môn đồ.
Chúng sanh mờ ám tội thâm,
Cúi xin ân ĐỨC chế châm lòng Thiền.
Cúi đầu mừng ĐỨC ĐẠI TIÊN,
NGÔ MINH CHIÊU tánh ở miền trần gian.                                                                                                 Thăng.
&      
TÁI CẦU :
                        Thầy các con,
            Các con tịnh tâm, nghe Thầy hỏi :
            …………………
            Còn hai chữ CAO ĐÀI nghĩa gì ? K……….bạch……………..
Cười…cừơi…. CAO ĐÀI… cười…..H…..L……T…….Thầy cấm các con bàn về hai chữ CAO ĐÀI nghe. Chờ đến Long Hoa Đại Hội sẽ rõ.
            Vậy từ nay các con biết Đạo, biết Thầy, nên chí tâm lo Đạo. Thầy cho các con rõ : NGÔ ĐẠI TIÊN là một điễm linh quang của Thầy cho xuống mở Đạo đó nghe, chớ lầm tưởng theo thế là Quan Phủ Chiêu mà có lỗi đó. Rán mà thành tâm cầu khẩn với người cho có lễ nghi, vì đương kỳ phổ độ người tạm dùng lời dạy các con xưng là anh em, chớ đến ngày Long Hoa Đại Hội thì người là Thầy của các con đó. Khá tuân theo.
                        ………………………….Thăng.
Ì

1.3. HỘI THANH CHIÊU.
LỄ LẬP VỊ NGÔI HAI

Thảo Lư (Cần Thơ), giờ dậu 23.6.Giáp Tuất (03.8.1934).
            Thầy mừng các Đệ tử,
            Các Đệ tử thành tâm nghe lịnh Thầy truyền. Tý thời các Đệ tử sắp đặt sửa mình cho thanh khiết đặng đảnh lễ NGÔ ĐẠI TIÊN đăng đàn chứng vị, hôm nay các Đệ tử đủ mặt hội hiệp nơi đây để chia sớt sự cãm hoá, nghĩa nặng ơn dày, cùng nhau lo báo lễ lập vị….NGÔI HAI Thầy rất vui
            …………………..
THI BÀI :
1. Đường diệu viển lòng thành nên đến,
Bước xa xuôi chẳng đếm nắng mưa;
Chung lo việc cả cho vừa,
Tỏ lòng hẩm hút muối dưa lấy tình.
2. HỘI THANH CHIÊU, CHIẾU MINH tỏ rõ,
Lễ thứ ba Thầy có tiên tri ;
Ngôi Hai chứng vị đến kỳ,
Trăm ngày vừa mãn bước đi Âm Đài.
3. Mười cửa điện Ngôi Hai vừa trãi,
Xét thưởng răn công quả dày công;
Tha cho khỏi chốn giam cầm,
Linh hồn thong thả lo chăm trở về.
4. Thầy chứng vị cựu ngôi giá bệ,
Độ hồn oan trở lại cựu quê;
Các hồn than khóc ủ ê,
Thấy Ngôi Cứu Thế sắc phê tha hồn.
5. Ngày nay mãn Thiên môn trở lại,
Cửa Ngọc Kinh khấu bái Hoàng ân;
Thầy phê lập vị cảnh trần,
Cho đời rõ đức oai chơn chí lành.
6. NGÔI HAI được đắc thành quả vị,
Cứu vạn linh khỏi bị luân hồi;
Nhà nhà đạo đức an vui,
            Lo chi trần thế gặp hồi loạn ly.
            Thầy dạy các đệ tử rán lo phận sự. Thầy ban ơn các đệ tử. Thăng./.
o
           
TÁI CẦU :
THI :
Phụng chỉ Thiên Đình giáng báo tri,
Ngã danh BẠCH HẠC chốn cung vi;
Tịnh đàn nam nữ nghi hầu lịnh,
Đại Đức giáng truyền tả bút thi.
            Ta mừng chư nho nam nữ, khả nghi tịnh tâm hầu lịnh.
THI :
Thế gian hữu phước ngộ chơn truyền,
Gặp Hội Thanh Chiêu rất hữu duyên;
Rán tịnh tâm thần hầu Thánh lịnh,
Nghe lời châu ngọc của Thần Tiên.
            Nghinh Thánh Giá ra cơ :
TIẾP ĐIỂN
THI :
NGỌC ánh hào quang vạn kiếp tồn,
HOẰNG khai Đại Đạo Đấng Thiên Tôn;
THƯỢNG thừa cứu thế mê tân khổ,
ĐẾ vị cao ban độ dẩn hồn.
            Thầy mừng các con nam nữ.
THI :
Mối Đạo hoằng khai độ các con,
Chung tâm lo liệu giữ cho tròn;
Ngôi Tiên có sẳn Thầy ban thưởng,
Vị củ an bài Phật điễm son.
Gắng chí thẳng qua nơi bỉ ngạn,
Mau chơn bước tới chốn Bồng non;
Cạn lời Thầy dạy đoàn con thảo,
Mựa trể kỳ ba vị chẳng còn.
THƯỜNG THIÊN :
Vẹt mây tỏ rõ thấy Trời,
Bốn phương sáng tỏ sao thời bủa giăng.
Tu hành có chịu nhọc nhằn,
Gặp cơn thưởng phạt dạy răn mới tường.
Thiên đình xem xét trần dương,
Ngôi Hai hạ giáng dắt đàng nhơn sanh.
Dắt tầm vị củ cung xanh,
Đến ngày thưởng phạt làm lành phước ban.
Giờ nay cho thấy rõ ràng,
Thầy lâm đàn nội chứng rành NGÔI HAI.
            HUỲNH, HỒNG.- Sắm năm ly rượu để sẳn trên bàn, chừng Giáo Chủ giáng gọi là làm lễ mừng chư Phật, Tiên, Thánh và Tam Giáo giáng chứng vị. Thầy thượng ỹ cho LÝ THÁI BẠCH thay thế cho Tam Giáo tả ba bài thi mừng NGÔI GIÁO CHỦ phục vị NGÔI HAI.
            Thầy ban ơn các con. Thăng.
            TIẾP ĐIỂN :
THI :
đào Tiên Thánh hội Linh Tiêu,
THÁI thọ mừng ngôi tặng mấy điều;
BẠCH Ngọc Huỳnh Kim màu rạng chói,
Giáng truyền thi Thánh thế rành nêu.
            Mừng chư Thiên mạng nam nữ. Ta vưng lịnh Tam Giáo tả ba bài thi mừng NGÔI HAI đắc vị.
THI :
Hỉ mừng đắc vị phản hườn nguyên,
Độ thế tu chơn diệu lý huyền;
Bá nhựt thành công du địa phủ,
Công bình chánh kỷ sử thanh biên.
                                    CHƯ THÁNH tặng.
HỰU:
Phản bộ Tiên Thiên bất nhiễm trần,
Thế gian rạng tiếng dẩn nguyên nhân;
Hoằng khai Chánh Giáo y Thiên lịnh,
Cứu khổ từ bi đức hạnh nhuần.
                                    CHƯ PHẬT tặng.
HỰU:
Cửu chuyển mầu vi nhựt nguyệt minh,
Chơn truyền độ dẩn cả quần sinh;
Chơn tâm bất nhiễm mùi trần tục,
Bác ái sanh linh đắc Đạo Huỳnh.
                                    CHƯ TIÊN tặng.
            Luôn dịp Ta tặng một bài :
THI :
Hành đạo chẳng sai ý của Trời,
Đến ngày phản bộ mặc vui chơi;
Mừng NGÔI GIÁO CHỦ nay an vị,
Độ dẩn nguyên nhân bước kịp thời.
RƯỚC NGÔI GIÁO CHỦ GIÁNG.
TIẾP ĐIỂN:
            NGÔ ĐẠI TIÊN kiến giá chứng vị NGÔI HAI. Thầy mừng các đệ tử.
            HUỲNH, HỒNG.- Châm tửu đảnh lễ tạ ơn Tam Giáo.
THI :
NGÔ truyền Đại Đạo hội Long Hoa,
ĐẠI đức khuyên tu lánh ái hà;
TIÊN trưởng độ đời qua bỉ ngạn,
Giáng dìu sanh chúng đáo Thiên Toà.
BÀI :
1. Du địa phủ lịnh trên NGỌC ĐẾ,
Sắc phê cho độ thế vạn an;
Cám ơn Địa Tạng bảo toàn,
Ngày nay lễ tất toạ bàn chung vui.
2. Bá nhựt thành chánh ngôi Thầy định,
Sắc cấp lai TỨ LỊNH THẦN KỲ;
Lo theo hộ Giáo Chủ đi,
Ngày nay quả mãn công thì thành công.
3. Rượu từng nhứt con Hồng đãnh lễ,
Mời TỨ THẦN chẳng nệ khó khăn;
Dắt đàng hồn kẻ tội oan,
Thầy tha trở lại dương trần lo tu.
4. Mười cửa Điện tha tù xá tội,
Cảnh hồng gian sám hối ăn năn;
Qui y theo Phật một đàng,
Lãnh đò Bác Nhã rước sang cảnh nhàn.
5. Kìa đất Phật Tây phang rực chói,
Ánh hào quang sáng rọi mười phương;
Đàn Tiên chung bước một đường,
Cám lòng đệ tử biết thương nghĩa Thầy.
6. Ngày chứng ngôi tại đây đủ mặt,
Thầy tỏ lòng chia sớt lễ chung;
Lòng thành đến hội kỉnh dưng,
Thanh Chiêu mở tại Chiếu Minh mỹ màn.
7. Phong Thần hội bảng vàng sắc lịnh,
Luật công bình đã định nào sai;
Siêu sanh nhờ đức thắng tài,
Nhứt tâm chánh kỷ độ rày nguyên sanh.
8. Đại Thánh lịnh đành rành phụng chỉ,
Cứu thế ngôi khử mị trừ gian;
Rán tu trở lại Thiên đàng,
Đắc truyền xá lợi kim quang chói ngời.
            Thầy vâng lịnh Bạch Ngọc Kinh nay công đã thành, Thầy chứng NGÔI HAI cứu thế : các đệ tử có lòng thành đồng tâm lo ngày Hội THANH CHIÊU châu tất, Thầy rất mang ơn chư Phật, Thánh, Tiên, Thần. Ban ơn cho các đệ tử lập thành kỳ hội thứ ba. [4]
Ì

1.4 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
VĨNH NGUYÊN TỰ (CẦN GIUỘC, LONG AN)

Mùng 1 tháng 9 Giáp Dần (15-10-1974)
THI :
Ta thấu rõ cơ Trời máy Tạo,
Trời cùng ta một Đạo chí linh,
Vô vi vốn sẵn hữu hình,
Hữu hình trông lại vô tình, vô danh.
NGÔ MINH CHIÊU, mừng chư hiền đệ, hiền muội. Để cùng chư hiền đệ muội chung vui tuần trà nơi Vĩnh Nguyên Tự, là chỗ Đức Bồ Tát thừa Ngọc Sắc hóa thân để lập thành ngôi quán trọ cho đoàn người sứ mạng buổi phá thạch khai sơn hoằng dương Đại Đạo, Tiên Huynh mời chư hiền đệ nhấp một chút hương trà gọi là đối ẩm giữa người đi trước với những bước chân sau.
Tiên huynh rất hoan hỉ. Đó mới gọi là người tu trong Đại Đạo. Tiên huynh tạm biệt. Nhường bút./.
&

1.5. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI (ĐÀ NẲNG),

Trung Hưng Bửu Tòa 23-01-ĐĐ.31 (Bính Thân) (05-3-1956)
THI
NGÔ tâm tịnh định đạo tâm khai,
MINH triết tọa vong yểu yểu đài;
CHIÊU khách nguyên căn truyền Thánh Đức,
Giáng long phục hổ luyện Chơn Thai.
Bần Đạo chào chư môn đệ.
Bần Đạo đến giờ nầy để lời bí quyết cho chư Hiền đồ công phu học Đạo hầu rèn luyện con người trở thành một Chơn Tiên có đủ Thánh linh để ra độ đời cứu chúng trong ngày tới đây. Ngày tới đây là một ngày đen tối, nhơn loại sắp bước vào quảng đường âm u. Nếu những Thánh môn đệ tử mà không có một Thánh thể viên minh, một Thánh tâm linh giác để làm ngọn đuốc đưa đường cho lúc ban đêm mờ mịt. Nếu ta không được tâm ấy, thân ấy thì có khác gì kẻ kia cùng nhau u ám.
Vậy nên người Hướng Đạo ngay bây giờ phải hạ thủ công phu để rèn luyện cái tâm thể cho được thanh tịnh thanh cao hầu tiếp lấy Thánh linh, thông công cùng vũ trụ, mà muốn có Thánh linh, muốn thông công cơ Tạo Hóa phải tịnh dưỡng thường xuyên, diệt phiền trừ dục, mới giao tiếp cùng lằn điển vô trần đương vận chuyển khắp bầu trời bao la vô tận, nên chi THẦY hằng khuyên nhắc mỗi đệ tử trong Thánh môn phải tự nâng mình được xứng đáng ngang với quyền pháp đã ban trao, thì giá trị cao trọng mới được thế gian tôn kính. Mà ai được quyền pháp xứng đáng kia? Chỉ có người trọn vẹn đầy đủ đức tin. Người có đức tin là người thời thường cầu nguyện. Người đã không còn đặt mình vào nơi nào mà phải được THẦY chỉ định, nếu ta đứng chỗ đông người mà muốn cho mọi người trông thấy nghe tiếng nói của ta, thì không có ai trong đám thấy và nghe bao giờ?
Vì vậy ta tìm chỗ vắng vẻ mà đến, mọi người được trông, nói trong đồng trống mà mọi người được nghe, tên ta bốn biển ca ngợi. Vì ta là khâm sai của THẦY, ta hằng ca ngợi THẦY niệm tưởng danh THẦY, thì danh ta cũng được thế gian niệm tụng. Nên người Hướng Đạo hay là cả môn sinh phải sống liền cùng THƯỢNG ĐẾ, không một cành hoa nào tách rời thân cây mà còn tươi đẹp và kết quả, nên chư Hiền đồ phải dính liền với THƯỢNG ĐẾ, được THƯỢNG ĐẾ điều khiển không thối thác, không từ nan, không sợ khổ, sợ nguy mà có chịu đựng được thì mình được cứu một sự xứng đáng. Nghĩa là uống được chén đau khổ cho đời thì đời mới hết đau khổ mà mình cũng không còn đau khổ. Nếu kẻ nào lo cứu mình mà không nghĩ lo cứu đời thì kẻ ấy không khi nào được cứu. Vì là lòng ích kỷ nhỏ hẹp thì sự cứu rỗi không trông tới được, mà phải có lòng bác ái vô biên, lòng ấy là tâm linh của vũ trụ, mà tâm linh ở đâu thì sự sống hằng có mà giống lành cũng do đấy mà nứt nở, nên phải có lòng ấy, muốn có lòng ấy phải quên thân mình, mà thân mình được quên thì thân Bồ Tát lại hiện, muốn có tâm Bồ Tát phải làm bao nhiêu điều cần yếu:
1- Đức tin hồi hướng về THƯỢNG ĐẾ
2- Ngôn ngữ cử chỉ hành động đều để cúng dường cho THƯỢNG ĐẾ.
3- Thân phận được hiến trọn cho quyền năng THƯỢNG ĐẾ
4- Vô vọng, vô dục mà tiếp giao liên kết cùng THƯỢNG ĐẾ.
BÀI :
Cửa Trời mở chín tầng mây,
Điển quang xán lạn Đông Tây ngập tràn.
1. Lần ba THẦY mở màng đạo pháp,
Đem chúng sanh qui họp một nhà;
Bốn phương trong cõi Ta Bà,
Hưởng cơ Tận độ LONG HOA dự kỳ.
2. Muốn nên Tiên: Vô vi thanh tịnh,
Muốn về THẦY: Nhất lịnh tưởng tin;
Muốn tha, sớm tối cầu xin,
Muốn thành Bồ Tát, muôn nghìn công phu.
3. Đạo muốn thành phải tu tánh mạng,
Luyện thân tâm để gạn Thánh phàm;
Phàm tâm danh lợi còn tham,
Sắc tài còn luyến sao làm được Tiên?
4. Tiên Phật không ưa quyền muốn tước,
Tâm thương đời là phước trường sanh;
Ngày mai Giáo hội hoàn thành,
Ngày nay phải có pháp lành được trao.
5. Trao cho người thanh cao Bồ Tát,
Luyện thuốc lành cứu các nguyên căn,
Bịnh đời trăm chứng khó khăn
Thuốc linh mới thể trừ căn bịnh tình.
            Bần Đạo chào chư Hiền đồ./.
Ì

1.6. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
NAM THÀNH THÁNH THẤT (SAIGON)

Ngày 03 tháng 2 Bính Ngọ (4.3.1966)
LỄ PHÁT BAN BẢN QUI ĐIỀU CHO
CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ
CAO ĐÀI GIÁO VIỆT NAM.
THI
Vốn thích an nhàn chốn động Tiên,
Nhưng vì thế loạn, Đạo chinh nghiêng;
Đồng chung nhiệm vụ kỳ nguơn hạ,
Đành gác thanh vân đến điện tiền.
            NGÔI HAI GIÁO CHỦ NGÔ MINH CHIÊU - Bần Đạo chào chư Thiên mạng, chào mừng chư hiền đệ, hiền muội trung đàn.
            Vâng Thánh Sắc TAM GIÁO THÁNH NHƠN, Bần Đạo đến đây cùng chư hiền đệ, hiền muội để giải thích danh từ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam. Miễn lễ đàn trung an tọa đẳng đẳng.
            Chư hiền đệ hiền muội nghe Bần Đạo giải thích đây :
            CƠ QUAN PHỔ THÔNG là bộ máy điều hòa rộng khắp cả.
            GIÁO LÝ là dạy lẽ Đạo. Chữ nơi đây cần hiểu rõ thêm rằng: từ thuở chưa dựng nên trời đất, ở trong khoảng không gian có một khối khí thanh mờ mịt yên lặng trống không mà vẫn vần vần khắp chốn. Trong cái khối ấy có một điểm sáng. Đó là Lý, mà cũng là ngôi Thái Cực. biến hóa âm dương. Âm dương ngưng tụ, tạo thành càn khôn vạn vật. Lão Tử tạm gọi là Đạo, vì sự cao siêu mầu nhiệm biến hóa vô cùng, gượng kêu là Đại Đạo. Lý là Đại Đạo. Lý Đạo hay Đạo Lý vẫn ở khắp mọi nơi.
            Quân minh thần trung là Đạo Lý.
Phụ từ tử hiếu là Đạo Lý.
Phu thê tương ái, huynh đệ tương thân, bằng hữu tương tín là Đạo Lý.
Đạo Lý không những ở trong hình thức tu hành mà thôi, lại còn ở trong khắp vạn vật chi linh. Có Đạo Lý thì cỏ cây được sanh trưởng thâu tàn. Có Đạo Lý thì vật mới được noãn thai thấp hóa. Có Đạo Lý thì người mới được tấn hóa trường tồn....
            Đạo Lý vẫn ở trong các sinh hoạt, từ cái hết sức lớn, đến cái hết sức nhỏ. Đạo Lý là sự hằng sống của muôn loài vạn vật. Đạo Lý là sự điều hành càn khôn vũ trụ, năm tháng ngày giờ....
            Còn năm chữ CAO ĐÀI GIÁO VIỆT NAM : Cao Đài là một tá danh của THƯỢNG ĐẾ, khi đến mở Đạo tại Việt Nam. Nay để chỉ sự ứng dụng cho Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Còn chữ Giáo sau này, là tôn giáo hay là Đạo Giáo chớ không phải giáo là dạy. "Tôn giáo là cửa vào Đại Đạo, vào chơn lý". Còn hai chữ "Việt Nam" : Việt Nam là thời kỳ thứ ba mà cũng là thời kỳ chót, Thượng Đế đến đây mở Đạo. Việt Nam là cái rún của năm châu, tất cả đâu đâu cũng đổ dồn về rún. Từ Phật Pháp Tăng, Nho Lão Thích, đều cũng đi vào trong ngưỡng cửa đó, để nhìn chung Lý Đạo là Lý duy nhất của Thượng Đế. ĐÀI cũng là cái đài. Cái đài tối cao trọng đại, chứa đựng từ bi cảm ứng trung thứ, tam qui ngũ giới, tam nguơn ngũ hành , tam cang ngũ thường. Đài là nơi, là vị trí tập trung tất cả xu hướng Đạo Giáo hay tôn giáo, phát tiết ra từ nơi đây.
            Bao nhiêu sự nhiệm mầu cao siêu huyền bí, vì sự kiện trọng đại như vậy nên người tín đồ của Thượng Đế không phân chấp ngã nhĩ, chẳng luận sắc tóc màu da, không chia chi rẽ phái, không nhìn nhận sự chia rẽ giữa các hình thức tôn giáo, vì chỉ có một bàn tay của Thượng Đế, tùy thời kỳ, tùy trình độ địa phương, tùy duyên nghiệp, đến mở Đạo cứu đời. Người tín đồ Cao Đài luôn luôn tôn trọng các xu hướng tín ngưỡng, đem tình thương hòa đồng khắp cả mọi giới, đem THIện cảm gieo rắc mọi nơi, để người người đều nhìn nhận cái lý duy nhất là cứu thế qua khỏi cơ tận diệt, hầu xây dựng hòa bình hạnh phúc nhân loại dưới ngưỡng cửa Đài Cao.
            Hôm nay, Bần Đạo vui vẻ chứng kiến ngày đánh dấu tươi đẹp của Cơ Quan. Nhơn danh một hàng Tiền Bối Khai Minh Đại Đạo, chấp nhận đường lối hành Đạo của Cơ Quan, nên thỉnh lịnh Tòa Tam Giáo Thánh Nhơn, đến đây giải thích định nghĩa danh từ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam để cho chúng sanh không còn hiểu lầm trong định nghĩa chật hẹp như thời gian qua.
            Ngày Cơ Quan được thọ lãnh Thánh Dụ Qui Điều, tưởng lại sự giải thích của Bần Đạo đã kịp thời đúng lúc. Đàn trung thành tâm tiếp điển GIÁO TÔNG lâm đàn, Bần Đạo ban ơn lành toàn thể chư hướng đạo, hiền đệ hiền muội và sẽ luôn luôn cùng các bậc Tiền Bối hộ trì sự hành đạo thành tâm THIệt ý của toàn thể. Bần Đạo xin thăng.
&
NGỌC MINH ĐÀI[5], TUẤT THỜI 01.3.BÍNH NGỌ (22/3/1966)
           
GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO THÁI BẠCH KIM TINH, Bần Đạo chào chư hiền đệ, hiền muội.
…………………     
 THI :
Hỡi chư hiền đệ đã thành tâm,
Phục vụ Cơ Quan buổi thế trầm;
Vững một tinh thần đừng sụp đổ,
Giống lành kết quả nẩy sanh mầm.
            Do sự định đoạt của Tam Giáo Tòa, NGÔ ĐẠI TIÊN, MINH CHIÊU thỉnh lịnh để chú thích thêm về danh hiệu Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý hầu kịp ngày phổ biến theo Qui Điều. Về Bản Thánh Dụ của CHÍ TÔN, sau khi dứt đoạn Thánh Dụ, hãy để là Ngọc Hư Cung ân tứ, và phổ biến đề cập với bài chú thích của Ngô Đại Tiên.
            Chư hiền đệ, hiền muội thành tâm tiếp ĐẠI TIÊN giáng bút, và Bần Đạo cũng ban ơn chung tất cả đạo tâm Tiên Thiên cùng Tòa Thánh Tây Ninh cũng như toàn ban lưỡng phái đều được một tinh thần đạo đức dõng mãnh. Tiếp điển, Bần Đạo lui gót, thăng./.
            TIẾP ĐIỂN :
            NGÔ MINH CHIÊU, Bần Đạo mừng chư hiền đệ, hiền muội. Miễn lễ, đồng an tọa để đàm đạo như thuở xưa.
            Bần Đạo may duyên lánh cõi tục trần, nhưng cũng không thể yên ngồi khi thế loạn, đạo chinh nghiêng, nên đồng góp tay vào việc hoằng dương giáo lý, quảng truyền chơn pháp, hầu cứu cánh cơn biến loạn ở trần hoàn.
            Bần Đạo vừa rồi đã lãnh lịnh TAM TRẤN để giải thích danh từ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, nhưng Bần Đạo còn muốn giải thích bằng loại ngâm khúc, để chư hiền phổ biến cho toàn đạo dễ đọc, dễ nhớ, nên nhân khi chuyển đàn kiểm thảo, Bần Đạo thỉnh lịnh Tam Giáo giáng cơ giờ nầy, hầu tiếp nối công việc cùng chư hiền đệ, hiền muội. Vậy chư hiền đệ, hiền muội hãy tịnh tâm để nghe Bần Đạo giải đây.
            Danh từ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Đoạn nhứt.
BÀI :
1. Thuở chưa dựng nên ngôi Trời Đất,
Khoảng không gian mịt mịt mờ mờ;
Hồn nhiên một khối ban sơ,
Vần vần luân chuyển gồm cơ nhiệm mầu.
2. Khí khinh khinh rộng sâu tỏa khắp,
Ánh huyền huyền bền chặt lưu hành;
Vô hình, vô tình, vô danh,
Cưỡng viết: "ĐẠI ĐẠO" hóa sanh vô cùng.
3. Tượng một điểm tựu trung duy nhứt,
Là "LÝ" ngôi Thái Cực Thánh Hoàng;
Vận hành phân khí tạo đoan,
Âm dương ngưng tụ thế gian lập thành.
4. Một Lý ấy hóa sanh vạn vật,
Gồm chung bầu Trời Đất chở che;
Ngũ hành luân chuyển mọi bề,
Thâu tàng sanh trưởng Xuân Hè Thu Đông.
5. Vật vật cũng lý đồng sanh hóa,
Nhơn nhơn đều đạo cả dưỡng nuôi;
Noãn thai thấp hóa vô hồi,
Trường tốn tiến thối cõi đời Tam Nguơn.
6. Có Trời Đất, có nhơn có vật,
Có đạo mầu Trời Đất định phân;
Thế nên khắp chốn hồng trần,
Đều do Lý Đạo tạo phần hữu vô.
7. Lý Đạo vẫn bày phô mọi cảnh,
Lý Đạo là Thiên Tánh phát ban;
Chẳng riêng tu sĩ đạo tràng,
Chẳng riêng xuất thế tham thoàn mà thôi.
8. Người sanh giữa cõi đời là Đạo,
Đạo là đường toàn bảo toàn chân;
Quân thị quân, thần thị thần,
Ấy là lý đạo trong phần nước non.
9. Phụ từ mới dạy con tử hiếu,
Phu thê hòa nên điệu sắt cầm;
Đệ huynh nghĩa trọng tình thâm,
Bằng hữu hữu tín tri âm hòa đồng.
10. Đó lý đạo trong vòng nhơn thế,
Phận làm người hồ dễ mấy ai;
Tu thân định mạng an bài,
Thì đâu thế sự ngày nay... điêu tàn !
11. Người tu niệm là toan giải thoát,
Thoát những gì ? Cực lạc nơi đâu ?
Trong khi nhân loại đau sầu,
Làm sao độc thiện, làm sao thanh nhàn.
12. Muốn giải thoát tìm đàng lánh tục
Muốn trở về cõi phúc Thiên nhiên;
Hiểu rằng : Lý Đạo vô biên,
Thường hành nhựt dụng không riêng cảnh nào.
13. Từ vương bá quyền cao chức trọng,
Từ công hầu lao động thứ dân;
Tánh thiện cùng với bản thân,
Trong nguồn sanh hoạt, trong phần hành vi.
14. Không tham dục lương tri mới hiện,
Không vọng cầu tánh thiện chẳng dời;
Máy linh lãnh chốn cõi Trời,
Đem làm nghiệp dụng trong đời vi nhơn.
15. Đây là cảnh tu chơn tá giả,
Hãy tìm đường tiến hóa huờn nguyên;
Háo sanh đức cả không riêng,
Thánh, phàm, cực lạc, não phiền do ta.
16. Lập Cơ Quan dung hòa đạo lý,
Đem hữu hình phục thỉ hư vô;
Không còn dùng thuyết mơ hồ,
Cho nhân loại phải mê đồ trầm luân.
17. Nhìn sắc tướng rồi phân nhĩ ngã,
Dấy lòng tham chác học cho đời;
Háo sanh là đức của Trời,
Con đường tận diệt tự người tìm sang.
18. Nầy hướng đạo Cơ Quan Giáo Lý,
Nhận lời ta khắc kỷ chánh tâm;
Kịp thời cứu cảnh luân trầm,
Mượn nơi cảnh giả mà tầm nguồn chơn.
ĐẾN ĐOẠN HAI : "CAO ĐÀI GIÁO VIỆT NAM".
19. Cao Đài chỗ Thiên nhơn hiệp nhứt,
Tá danh hầu cứu vớt vạn linh;
Trong cơn thay xác đổi hình,
Hạ Nguơn mạt kiếp phục sanh tánh lành.
20. Giáo, Tôn giáo lập thành cửa đạo,
Khi hoàn cầu điên đảo họa tai;
Trần gian lố bóng Cao Đài,
Đông Tây Nam Bắc hoằng khai chơn truyền.
21. Kìa chánh giáo Phật, Tiên, Gia, Lão,
Khai sanh môn lập đạo nơi nơi;
Đều do nguyên lý của Trời,
Thác sanh cõi thế cứu đời độ dân.
22. Cảm ứng trước mở đường chánh đạo,
Khi người còn hoài bão Thiên lương;
Thiện cảm trực ứng thượng từng,
Ác cảm tạo nghiệp sa chân luân hồi.
23. Biển trần khổ giam người trần tục,
Bến mê đồ câu thúc mê nhơn;
Vì chưng rời bỏ tánh chơn,
Mạnh đành hiếp yếu không phân dữ lành.
24. Đấng Thượng Đế vì tình Tạo Hóa,
Chiết Linh quang xuống ngã hồng trần;
Mượn nơi chí trọng các lân,
Hy sinh phá chấp gieo mầm từ bi.
25. Chịu khổ hạnh bồ đề tịnh tọa,
Đem huyễn thân túc xá kim thân;
Tây Phương giải thoát nhơn quần,
Nghìn năm lịch sử trọng phần Thế Tôn.
26. Muốn cứu vãn quốc hồn dân tộc,
Lập nền nhân Khổng Học Nho gia;
Mở đường Trung thứ dung hòa,
Đại đồng chánh nghĩa nước nhà trị an.
27. Đem diệu pháp huy hoàng Đại Đạo,
Dụng huyền năng trọng bảo nguyên nhân;
Vì chưng sa chốn biển trần,
Không còn linh tánh mất phần thiện tâm.
28. Quên đức cả cao thâm sanh hóa,
Chẳng tĩnh vì gây họa Tây Âu;
Muốn cho thiện ác đáo đầu,
Chiết thân xuống thế ngõ hầu cứu nguy.
29. Đem giọt máu để vì nhân loại,
Chuộc tội người chẳng trái luật công;
Lập nên Thánh Chúa đại đồng,
Biểu dương Thiên luật chí công trị vì.
30. Đó cảm ứng từ bi trung thứ,
Đây công bình nắm giữ nguyên nhân;
Mở toang các cửa nơi trần,
Khai Minh Đại Đạo độ lần chúng sinh.
31. Nay Trung Ương sắc huỳnh mồ kỷ,
Rún năm châu bốn bể là đây;
Cũng nơi vạn pháp phô bày,
Tam tông qui lập Cao Đài chơn tông.
32. Hiểu mọi lẽ Phổ thông Giáo Lý,
Cùng tận đường cơ chỉ pháp môn;
Là đem lại kiếp sanh tồn,
Trong vòng nhân loại dập dồn nạn tai.
33. Cùng gặp gỡ Cao Đài Đại Đạo,
Hòa lý chơn cởi tháo hữu hình;
Đừng vì sắc phái âm thinh,
Đừng vì mặc cảm chia tình đó đây.
34. Nặng xu hướng rồi gây ảnh hưởng,
Để tôn thờ sắc tướng hiện thân;
Quên tình đạo ở tinh thần,
Đạo thành cũng tại nguyên nhân hợp đồng.
35. Nay Bần Đạo vì lòng mến đạo,
Đem công tâm chỉ giáo đạo tâm;
Cùng nhau tìm hiểu lý thâm,
Là phương cứu cánh đọa trầm ngày mai.
            Chư hiền đệ, hiền muội ! Thuở sanh tiền, Bần Đạo quyết xuất thế để tìm đến bực siêu đẳng pháp môn, hầu giúp vào cơ Đại Đạo, để cứu cánh dân tộc trong khi còn đô hộ. Nhưng ước vọng chẳng được hoàn toàn, vì Thiên số dĩ định, nên chưa đoạt đến mục đích, đã vô tình rời bỏ anh em, nên để lại một ảnh hưởng rất lớn cho phái Chiếu Minh là kỳ thân độc thiện. Đó chẳng phải Bần Đạo cố tâm, cũng bởi kiếp nạn chúng sanh, nên chịu nhiều cảnh chia ly từ đời tới đạo, chớ điều xuất thế hay nhập thế của Bần Đạo điều là một lòng trung kiên khai đạo, vì nước non dân tộc, vì chí hướng quảng độ quần sanh. Đến ngay nay, những giáo lý của Bần Đạo còn roi lại một công trình dở dang thiếu sót, nên hiện tình, Bần Đạo cũng trông vào hướng đạo hiện tại và tương lai, nối tiếp công nghiệp của tiền bối đã qua, hầu thanh minh cho tấm lòng của đệ huynh tiền bối và Bần Đạo, điều ấy rất mong.
            Bần Đạo chiếu lịnh ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN, bộ phận sẽ thiết đàn vào ngày rằm tháng 3 để kiểm duyệt các giáo lý còn đang chờ đợi ban hành, và chú giải Tứ Thời Nhựt Tụng, Tân Luật Pháp Chánh. Vậy sự sắp xếp này, Tổng Thơ Ký hãy lo liệu, để chuyển sang Hiệp Thiên Đài hầu đãi lịnh nghe.
            Từ đây, chư hiền đệ hiền muội hoặc ở Hội Thánh, Thất thất, Tịnh Thất, hoặc ở tư gia, hãy giữ chí trung kiên vì đạo, đừng vọng tưởng non Sở núi Tần, đừng để tinh thần biến Thiên thác loạn, đừng vì sự khảo đảo hay vui đâu chúc đó mà làm sai lạc chánh pháp. Thiêng Liêng luôn luôn hộ trợ và ban ơn, đâu cũng là hành sự.
            Rồi đây, Thiên cơ vận chuyện, sẽ liên quan tất cả các nơi trên một nhịp cầu giáo lý để cùng gặp gỡ, thì hãy tự tu, tự lập, để khi gặp gỡ khỏi phải kém sút đồng đạo ở tinh thần hay lý tưởng đạo đức. Đó là cương vị ái môn đồ của Thượng Đế, có trách nhậm, giữ phần thi hành triệt để, chưa có trách nhậm tìm cách tu học, tập rèn, để hầu bồi công lập Đức. CHÍ TÔN và chư Phật, Tiên không bao giờ dạy chư hiền đệ phải sang đây, sang kia, hoang mang không đường lối, chẳng biết việc mà làm, hay nhiều việc với kém đức thiếu tài để mang danh hư hoại cho nền Đại Đạo. Bần Đạo vì lòng cảm xúc nên có mấy lời, chư hiền đệ hiền muội ghi nhớ. Tạm biệt, về sau còn dịp tao ngộ. Mừng chung tất cả đều được trọn ơn lành của Đấng CHÍ TÔN, thăng./.
Ì

1.7. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
HỘI THÁNH TIÊN THIÊN (MỸ THO - TIỀN GIANG)

THÁNH TỊNH THIÊN MINH ĐỨC, 20/9/Đinh Mùi (23/10/1967)
THI
Non nước suy đồi, đạo hoát khai,
Phổ truyền chánh giáo cứu nhơn loài,
Đem nền Tân Pháp xây đời thạnh,
Tu đắc chơn truyền giải thoát ngay.
            Đệ Nhứt Giáo Tông Vô Vi Ngô Minh Chiêu, Tiên Huynh chào mừng chư hiền đệ hiền muội đoàn hướng đạo, chào mừng các em lớn nhỏ trong ngoài.
            Được mời chứng lễ xá tội vong linh vạn dân sanh chúng, Tiên Huynh có ít lời để khích lệ đoàn hướng đạo cũng như các em hiện diện. Mời toàn thể ngồi.
            Các em ôi ! Đời người một kiếp sống trôi qua như ánh thái dương sớm mọc chiều lặn. Tuy ai cũng ước hẹn trăm năm, nhưng xét lại ba vạn sáu ngàn ngày khó mong hưởng đặng. Thoạt thấy đang trong lứa tuổi đầu xanh, rồi vùi thân trong kiếp ở ăn và mặc, đủ thiếu thiếu đủ, loanh quanh phải trái. Sự thế chưa rồi, nhìn lại tóc đã điểm sương, báo hiệu cho chuỗi đời sắp hết. Đời cũng chẳng xong, đạo cũng chẳng rồi. Vô thường đến gọi cửa, thì ô hô vạn sự hưu !
            Do đâu mà có cảnh ngộ như vậy ? Ấy là định luật chung của muôn loài vạn vật. Hữu hình ắt hữu hoại. Có đi phải có về. Nhưng đi đâu rồi về đâu hỡi các em ?
            Có phải tìm đạo, học đạo tu thân là nhớ căn nhớ kiếp của mình từ chốn Thiên Đình đến trần gian lập công quả để trở về nơi ấy lập vị chăng ? Tạm trả lời rằng: Đúng. Nếu đúng thì cõi tạm này đâu phải là nơi cố định mà lo xây tạo những gì vĩnh cửu cho cá nhơn mình.
            Biết được vậy rồi, các em phải rán lo tu, cố gắng trả lần những oan khiên nghiệp chướng cũ, tô bồi âm chất công quả, hầu có số vốn vô hình, nhưng quí báu để trở lại nguồn xưa.
            Sự tu thân có hai cách:
            1) Là phải lo cải tiến tinh thần, gột rửa những thói hư tật xấu cho nội tâm được trong sạch, thi ân bố đức từ lời nói đến việc làm để có được âm chất.
            2) Là phải học hỏi về phương pháp tu luyện để sớm giải thoát mọi vấn vương của nghiệp chướng thường tình, hầu tìm lại chơn như bản thể. Chớ để bị mọi giả cảnh dối gạt mà sa vào tội lỗi thì khó nỗi siêu sanh lạc cảnh.
            Nhưng sự dối gạt đó là trong lúc hành đạo, vì tự tin tự mãn rồi đụng chạm các khía cạnh khác, làm đạo tâm sanh chúng hoang mang. Đó là những chướng ngại ngăn đường cản lối của người tu.
            Vì trước kia sớm biết như vậy nên Tiên Huynh sớm tìm ra phương pháp tu luyện về Nội Giáo Tâm Truyền để sau này cho những ai công đầy quả đủ, bước sang giai đoạn đó hầu thoát tục tầm Tiên.
            Tiên Huynh hẹn còn ngày tái ngộ. Xin nhường bút tạm giã từ các em. Thăng.
Ì

1.8. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN DẠY
TRONG CHƠN LÝ HIỆP TUYỂN

VỀ “HÀNH ĐẠO
VÀ TỊNH LUYỆN

THI :
NGÔ dứt huyền vi xuất thế rồi,
VĂN chương trải mấy lối chiều ôi!
CHIÊU MINH độ thế đường sanh khổ,
GIÁNG điển văn phê THÁNH ĐỨC hồi.
&
HÀNH tàng thế cuộc có bao lâu,
ĐẠO đức chưa xong đã bạc đầu;
TỊNH trí đặng về ngôi vị cũ,
LUYỆN THẦN thoát khỏi hố hang sâu.
Nay Bần ĐẠO giảng dạy về sự “HÀNH ĐẠO TỊNH LUYỆN” để thức tỉnh lòng người, cơn cuôi cùng Ngươn Hội.
1.Hành Đạo là đem cái CHƠN LÝ của ĐẠO mà phổ độ chúng sanh.
2.Tịnh Luyện là bổ dưỡng ngươn tinh, ngươn tinh biến ra ngươn khí, ngươn khí nó mới thành ra ngươn thần.
Cái Chơn Lý Hành Đạo Tịnh Luyện vẫn có một không hai. Biết cùng không biết là do nơi người mê tín theo phương diện ích kỷ cho mình mới phân nhơn phân ngã đó thôi.
HÀNH ĐẠO phải TỊNH LUYỆN, hay TỊNH LUYỆN rồi HÀNH ĐẠO. Cần phải hiểu trong bài nầy:
Người mà biết cơ Tạo Hóa, rõ cuộc phù vân rồi thì bao nhiêu cuộc chung đỉnh mấy lối vinh sang của đời, đành phê hủy, đặng rồi đem tâm phàm trí tưởng về ĐẠO. Khi về tới ĐẠO phải kinh nghiệm cho thấu đáo điều chánh lẽ tà, cho biết một chút ít chơn lý của đạo, rồi thì đem mình giúp cho cơ tấn hóa của đạo, hay là giúp đời.
“Cải ác tùng lương là hành đạo”. trong lúc hành đạo phải tịnh dưỡng ngươn tinh đặng bổ dưỡng ngươn khí rồi ngươn thần.
Nhờ ngươn khí giúp cho mình đặng minh tâm kiến tánh hiểu xa thấy rộng, đặng độ dẫn sanh linh, ấy là có tịnh luyện mà hành đạo mới khỏi lạc lầm.
Đời là giả trược, con người thâm nhiễm vật dục.
Nếu hành đạo mà không tịnh dưỡng ngươn thần thì người ấy sẽ bị tội : si, ái, ố, rồi tan rã Đệ Huynh, phân tình bằng hữu : vì thiếu Từ Bi nên bị Nhơn Dục chuyển tâm như vậy.
Còn TỊNH LUYỆN mà không hành đạo thì ngươn tinh đầy đủ sanh ra ngươn khí không hết, ngươn thần cũng vì bị ngươn khí nhiều mà tán loạn thành ra ngầy ngật, mang bịnh sổ huyết mà có hại, có hại ấy do nơi không vận chuyển về đường lành đặng bớt tinh thần ra lo hành đạo.
Có nhiều khi ngươn tinh đầy đủ quá:
1 . Nếu kềm lòng dục đặng thì ngươn tinh đi ngược.
2 . Hoặc phá nơi hậu mà ra, nếu kềm không đặng thì sẽ trở nên loạn dâm, thành ra bại hoại.
Bởi vậy hễ biết ĐẠO thì phải luyện thần.
Mà biết luyện thần là tự nhiên biết hành đạo.
Sách dạy rằng “nhàn cư vi bất THIện”
Hỏi mấy lẻ trốn đời mà tịnh luyện có thành chi đâu? Rồi một ít lâu sa ngã hoặc chết.
Cái giáo lý của ta truyền không phải là ích kỷ mà than ôi!!! Đời cứ ngạo báng chê bai!!!………Cười……………Ấy là gây thêm tội lỗi.
Còn phái Chiếu Minh cũng có một vài kẻ chẳng làm đúng theo lời ta dạy, làm lỗi là bởi học trò.
Từ đây khá biết rằng : “cơ đạo vận hành cứu thế”
1 . Tu phải dưỡng Thần, phải hành ĐẠO mới đắc quả thành công, mới về ngôi vị đặng.
2. Nếu tu mà Thiên về một bên Tịnh Luyện cũng hại, chớ không thành công.
3. Còn tự mình rằng : “Lo Đạo ỷ thế, ỷ công không Tịnh Dưỡng cũng khó mà về ngôi vị”.
THI :
Ngôi vị từ xưa đã sẳn dành,
Bớ đời vì Đạo chớ vì danh;
Hành trình một kiếp ngàn thu hưởng,
Hưởng phước ba ngươn vẹn quả thành.
Thiên lý máy trời tua xét đoán,
Chánh tâm thành ý khá mau thành;
Biết Đạo đừng lầm hỡi chúng sanh.
NGÔ VĂN CHIÊU
&

1.9. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ HỘI THÁNH
TRUNG ƯƠNG TAM QUAN TRUNG VIỆT (BÌNH ĐỊNH)

ĐỀ SƠ THIỀN: TỊNH THỦ HƯ VÔ
Tý thời, 15.5.Qúy Sửu, Đại Đạo 47 (15.6.1973).
THI
NGÔ hiệp thời sanh chuyển pháp luân,
MINH cơ nhất bản Đạo tinh thuần.
CHIÊU an Thiên mạng hành Thiên đức,
Giáng điểm Thánh huyền tạo Thánh nhân.
Sơ khởi chí thành hoàn chí thiện,
Thiền khai Thần huệ hội Thần chân.
Tịnh trung chỉ niệm tiêu ma chướng,
Thủ đắc dương triền cấp thể huân.
Giờ này Ngô huynh thừa lệnh chuyển cơ giảng đề tài "Sơ thiền Tịnh Thủ Hư Vô" trong phẩm Thượng Thừa Bửu Kinh này.
Tất cả đàn trung hãy tịnh tâm an tọa nghe dạy:
Sơ thiền còn có danh từ là luyện kỹ trúc cơ. Là luyện vô niệm, luyện tâm hoàn toàn thanh tịnh hư vô, còn gọi là luyện Tâm thuần Dương.
Tâm có Tiên Thiên Tâm và Hậu Thiên Tâm.
- Tiên Thiên Tâm: vốn thuần dương, thuần thiện, thuần chân vô ngã, vô tử vô sanh. Là tâm của Thượng Đế, của Như Lai, của Thánh Nhân, của các bậc Chân Nhân.
Tâm này có đặc tính tịch tịnh như nhiên, không một hào ly tà hỏa.
Tâm này không hề nghĩ thiện, nghĩ ác hay bất cứ một đối tượng nào của thế giới Nhị Nguyên. Cũng không hề chấp có, chấp không, chấp Tâm, chấp Tướng, chấp Tánh, chấp Mạng hay Thiên chấp nhất biên.
- Hậu Thiên Tâm: Từ Thái Cực sanh Lưỡng Nghi là phân phát âm dương, sanh Tứ Tượng... là cơ trùng trùng chuyển hóa thị hiện. Thị hiện từ thế giới bên trong con người, đến thế giới hữu hình bên ngoài.
Sự thị hiện đó là do cơ biến hóa âm dương của Hậu Thiên.
Cơ biến hóa đại khái như: thạnh - suy, bĩ - thái, trị - loạn, an - nguy, tấn - thối, tồn - vong, dinh - hư, tiêu - trưởng, sanh - tử, tử - sanh... gọi là trăm ngàn đối tượng.
Nơi con người là lưỡng dạng tâm, là tâm bất nhất, là nhị Tánh, là phàm Tánh, là Ly âm Tâm hỏa...
Lưỡng dạng tâm đã tạo cho loài người tranh chấp hơn thua, mạnh hiếp yếu, đi đến chỗ tương tàn, tương sát lẫn nhau.
Lưỡng dạng tâm đã biến chốn thanh tịnh tu hành thành một hội trường tranh luận cao thấp chánh tà. Nên đã biến chánh pháp ra tà pháp.
Lưỡng dạng tâm của con người đã gây ra nhiều tội lỗi không kể sao cho xiết.
Vì thế, lưỡng dạng tâm là hiện tượng nguy cơ của phương xử thế.
Còn Ly âm Tâm hỏa là hiện tượng nguy cơ của sự tu luyện, vì Ly hỏa là loại lửa thiêu đốt chơn đơn trong người.
Ly âm Tâm hỏa có loại dâm tâm là nguy hiểm nhất, đã từng thúc giục những kẻ tu hành thiếu nghị lực phải bỏ cuộc và rơi sâu xuống vực thẳm.
Sơ Thiền chủ trương luyện cái tâm hậu Thiên thành cái tâm Thiên tiên như đã nói trên rồi mới bước vào công phu luyện mạng.
Luyện mạng khi đã thành Thánh Thai còn phải trở lại luyện tâm lần cuối cùng mới thành Chân Tâm hoặc Thuần Dương Tâm.
Thiền tịnh là pháp luyện Tâm an tịnh, dứt niệm lự ưu tư, thanh lọc giác linh. Luyện tánh vô vọng động, thuần định, giải thoát vạn duyên trần nghiệp, dứt vọng ý sanh tâm, tạp niệm ngã chấp, đoạn căn phiền não.
Nhãn, nhĩ, tỷ, Thiệt, thân, ý sáu căn thức này hay tạo nghiệp khổ triền miên đều quy trung tức đưa vào tận bản cung quy y thọ Pháp (có chỗ gọi đóng sáu cửa là đây).
Mắt, mũi, miệng là ba ải trọng yếu, là đường thoát lậu tam bửu, phải được cẩn mật nghiêm phòng để cho các thinh âm, sắc tướng bên ngoài không có đường nhập nội tâm quấy rầy, tạo nên muôn duyên vạn niệm.
Nhất là nhãn quan là cửa ngỏ thoát Thần du ngoại giới, cầm đầu cho các căn thức kia tác hại.
Bên trong tâm được an tịnh linh minh thì mọi căn nguyên phiền nảo, tà niệm, ác ý, sân tham đều biến dạng trong hư vô không cảnh, tức tâm được thanh tịnh.
Nhờ tâm thanh tịnh mà cơ luyện mạng mới thành công, thần khí mới quy tụ, mới tiếp nhận được chân khí linh huyền bao la của vũ trụ vào nội khiếu bồi bổ cho huyễn thân hóa thành pháp thân.
Khi thiền tịnh: ngồi kiết già hoặc bán già, hoặc ngồi ghế tùy nghi, nhưng lưng phải ngay thẳng, sống mũi phải thẳng hàng với rốn, đôi mắt hạ thấp mí trên, gọi là xũ rèm mắt. Dụng chơn ý và khí hô hấp chuyển Thần từ Nê Huờn Cung hạ xuống Hạ Đơn Điền (Khí căn), đôi nhãn quang trực chiếu vào đó cho tức tức quy căn khiếu, gọi là "ngưng thần tụ khí nhập ư khí huyệt chi trung". Hễ cực tịnh được lâu ngày thì thân tâm thơ sướng nhẹ nhàng thoải mái.
Nhờ tánh, mạng tương giao; thần, khí tương hiệp trong Thái Cực Cung mà có cơ dương sanh động tiếp theo.
THI BÀI
Trường tu tịnh hư vô chân pháp,
Điểm môn đồ quy nạp linh căn.
Công phu vi diệu vô ngần,
Thừa hành còn phải chí chân nguyện thành.
Đủ nguyện lực mới hành Đại Đạo,
Có thiện căn mới bảo toàn công.
Có cầu lý Đạo tinh thông,
Mới đem Tánh, Mạng vào trong Thượng Thừa.
Phần Sơ Thiền sớm trưa luyện kỹ,
Vì Đạo là trực chỉ chân tâm,
Đạo không ảo tưởng xa tầm,
Mà trong nội thể thâm thâm diệu huyền.
Nếu còn nặng nghiệp duyên khó thấy,
Nếu còn mang phải quấy biện minh,
Còn ham quyền tước, lợi danh,
Còn theo sắc tướng, còn sanh giả hình,
Còn phóng túng thất tình lục dục,
Còn sân dâm, còn lúc mê si,
Còn vương vật dục kéo trì,
Còn trong tứ khổ, còn đi lạc lầm.
Tu luyện Đạo là tầm nội thể,
Xét biết mình phục chế bên trong.
Tâm, Thần là chủ nhân ông,
Là chân chân giác, là không không trần.
Tâm tức Phật, Tâm chân là Phật,
Phật tức Tâm, Tâm thất là Ma.
Phật Tâm giác chiếu chan hòa,
Như như bình tịnh chẳng xa, chẳng gần.
Chân thiện hóa thu lần Tánh Đạo,
Tánh bổn lai hạo hạo nhiên không.
Thuần thành trí giác khai thông,
Sáu căn đóng cửa, ba lòng toàn vô.
Cơ nghịch vận pháp đồ thể tượng,                           
Quy vạn thù hiệp chưởng nhất nguyên.
Công phu kính cẩn kiền thiền,
Luân hành máy tạo cơ huyền diệu năng.
Công khởi nhập điểm phần sơ bộ,
Giải nghiệp trần điều độ thân tâm.
Tâm hư, Tánh định, Thần chân,
Bảo nguơn tam thể tiếp vâng thường hành.
Đoạn tứ tướng phân rành ảo tưởng,
Thâu phóng tâm quên chướng ngại hình.
Để cho nội giới linh minh,
Cho Thần Khí hiệp, cho tình Tánh quy.
Ấy mới gọi sơ kỳ kiến tạo,
Là Trúc Cơ cho bảo nguyên hanh.
Là công Tánh Mạng thuần thanh,
Diệu nhiên dung hóa tượng thành Đao Khuê.
Bảo linh căn hiệp tề nhất chũng,
Tam bửu quy chuyển dụng lò vàng.
Ngưng Thần, tụ Khí hồi quang,
Tức tâm, tâm tức nhịp nhàng ôn nhu.
Ly âm hỏa tiếp thu Khảm nội,
Long hổ giao chung hội nhứt đoàn.
Đãnh lư lập hướng Khôn Càn,
Chuyển xoay máy tạo, dinh hoàn định phân.
Thủ dược vật hạ tần hải để,
Tải huỳnh kim lên bệ Càn cung.
Trục Duyên thêm Hống đến cùng,
Hống thành Càn tượng, Duyên tùng Khôn diêu.
Tụ hỏa pháp là phiêu bí chỉ,
Lửa ấm thường Duyên Khí mới thăng.
Hấp, để, toát, bế làm căn,
Điền Ly, chiết Khảm hóa hoằng công phu.
Sơ tý thời hành chu vận số,
Tạo hóa dung là độ dương sanh.
Thiên nhân hiệp nhất tự thành,
Tu đơn phải biết, phải rành cơ Thiên.
Nội ngoại Khí huyền huyền tương tiếp,
Luyện phách hồn hóa hiệp Tiên Thiên.
Giải cơ thất chánh Khôn Kiền,
Chuyển cơ an định, chí huyền hư linh.
Thiền cực tịnh chờ sinh Chân động,
Thiên cơ triền hộ tống dương lai.
Quan môn đóng chặt bên ngoài,
Nhập thần điều hóa, nghịch khai dẫn hồi.
Nơi khiếu trung chỉnh ngôi ôn dưỡng,
Giữ ngoài trong chẳng chướng ngại tâm.
Chẳng còn niệm lự sai lầm,
Minh minh, ảo ảo, thâm thâm bảo toàn.
Châu Thiên vận Khôn Càn mấy độ,
Cho hóa thuần khỏi chỗ lậu sanh.
Thiền tịnh, tịnh mãi động hành,
Động hành, tịnh vận, động sanh thời hầu.
Chừng nào hoán thể quy đầu,
Là Chân tiểu dược Minh châu sắp thành.
THI
Pháp đạo Tiên gia chuyển ngũ hành,
Huyền quan Tổ Khiếu tự quy sanh.
Định thần hội nhập song mâu chiếu,
Chân ý thông linh lưỡng Khí hành.
Diệu ứng huyền cơ Tiên Hậu hóa,
An nhiên Khiếu nội Khí Thần thanh.
Tu đơn rõ lý minh tinh hiện,
Chỉnh định Càn Khôn tại bản doanh.
Chư phận sự Hiệp Thiên Đài chú ý: Tất cả các đàn ban kinh được đọc và giảng tại Thánh Thất. Việc ban hành phải chờ lệnh sau.
Giải bốn chử: Hấp, Để, Toát, Bế trong bài:
- Hấp: Mũi hít khí Hậu Thiên để tiếp Tiên Thiên.
- Để: Lưỡi trụ thượng ngạc để rước cam lồ.
- Toát: Giữ kín Cốc Đạo cho hỏa tụ.
- Bế: Xũ rèm mắt, chiếu ngược vào trong cho Dược ngưng Đơn kết.
Giờ mãn đàn, Ngô huynh ban ân chung. Thăng.../.
o

1.10. ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
GIÁO HỘI CAO ĐÀI THỐNG NHỨT

(
TAM THANH BỬU ĐIỆN) (LONG AN)

CAO MINH QUANG, Hợi Thời 15.6.Tân Hợi (05-08-1971)
THI :
NGÔ đồng phơi quả tiết xuân về,
MINH định chương trình phản vị quê,
CHIÊU tập tinh ba hồi bổn vị,
GIÁNG trần luân chuyển bút lưu đề.
Tệ Huynh mừng Thiên Mạng các em đàn tiền. Thầy mừng môn đồ an tọa, nghe Thầy truyền :
Nầy Thiên Mạng cùng các em, Tệ Huynh nhắc lại trước kia những cơ đàn vừa chuyển bút, lòng ưu ái sâu xa bởi lòng hiếu đạo môn đồ nguyện cầu thực hiện để trả ơn sâu là giúp cho đời một phương tiện tu đơn luyện mạng phục hồi bản vị. Đó là Thầy chấp nhận lòng hiếu đạo của môn đồ. Nhưng Thầy đã tiên đoán, vì trước kia tại trần Thầy chỉ tạm dụng từ tư gia khai đàn để lập quả công cùng nhau tu học, không dụng hình thức, nhưng chỉ dụng tinh thần. Đó là điều mà Thầy đã truyền ban lên trên sử đề bút ký. Hiền Thiên Mạng cùng môn đồ nên tri tường.
Thiên Bình môn đồ, lòng trắc ẩn phân vân như cơ đàn vừa qua, môn đồ nên trình bày nơi điện tiền để xác nhận những điều minh định đó môn đồ.
Thiên Bình bạch : Kính bạch Thầy, đàn vừa qua tại tư gia của Minh Thanh, con cũng có xuống hầu Thầy để nghe Thầy dạy điều chi trong Phái Chiếu Minh, bởi muốn có sự hòa nhã trong phái Chiếu Minh. Còn những điều phần con tự nguyện, con xin vâng lời Ơn Trên. Xin Thầy xá tội con đã vắng mặt đàn vừa qua.
Thầy không buộc môn đồ túc trực cùng Thầy truyền dạy, dù nơi nào có ngọn linh cơ đều được điển Tiên Thiên truyền dạy, nhưng Thầy phân tách sơ đây : Tiên Thiên chơn điển, hậu thiên điển, trung thiên điển như Giáo Tông vừa truyền dạy, phân tách để cho Thiên Mạng cùng chư hiền so sánh những điều hiểu biết của mình mà đi theo chương trình hành đạo. Đó là một quyết đoán để khỏi phân vân ngày mai hậu, vì có câu : “Nhược thiệt nhược hư nhi bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa”. Như thế hiền môn đồ cần suy luận. Giờ quyết đoán trước điện tiền đôi lời do lòng cương quyết, chí hy sinh, đó là điều đáng mến, lòng phàm đã trọn vẹn hiến thân hành đạo. Vui thay!
Giờ đã điểm chương trình khai thác, một họa đồ tự động vì Khương Công tả nên hình thể tương tự huỳnh long, nhưng lòng môn đồ đã nhiệt tâm xây thành đạo thể. Như thế lòng cương quyết của môn đồ khi áp dụng thiên đồ của Khương Công truyền chỉ. Như vậy là tùy nhơn ý để thừa hành. Đó là lời của Thầy vừa rọi điển minh định đôi lời, sau Khương Công sẽ duyệt.
Vậy về phần đồ án nầy, hiền môn đồ trao cho Hải Thần một hình thức để trình đến Lữ Vọng đàn sau.
Còn về phần thủ tục thì môn đồ tùy theo phương thức đạt thành hình pháp, môn đồ tường chăng?
Thiên Bình : Bạch Thầy con hiểu chỗ đó. Bởi theo thủ tục Kiến Trúc Sư có họa hình huỳnh long nơi lối ra mới xin pháp được. Xin Thầy minh định lại.
Về phần lễ trí thạch đầu tiền như lịnh trước. Sắc tứ trung tuần thất ngoạt, hiền môn đồ nghĩ sao? Bạch.
Thiên Bình : Con định lễ trong? Hôm 14-15 và 16 là ngày chính thức đặt viên đá đầu tiên, xin Thầy minh cho con.
“Nhơn ý hòa Thiên ý định” Thầy đồng điểm, vì Thầy cũng định thp lc nht Ng thời khởi hành thiết lập lễ trí thạch.
Về phần trí thạch, môn đồ đã chọn xong?
Thiên Bình : Bạch Thầy, con chưa định được.
Về phần, đôi phần Thầy nhờ Thiên Mạng Hải Thần tán trợ một phần ba trong ngày đặt đàn trí thạch, thay đại diện Hiệp Thiên Đài đó môn đồ. Còn hai phần tùy môn đồ chọn lấy.
Về phần lễ nầy, Thầy sẽ thượng tấu Giáo Tông xin chuyển toàn Giáo Hội, bộ phận Hiệp Thiên Đài tá trợ tinh thần trong ngày trí thạch. Hiền môn đồ còn điều chi bạch chăng?
Thiên Bình : Con xin vâng lời Thầy dạy, còn điều chi xin Thầy minh cho con.
Vậy lòng cương quyết đạt thành Đại Đạo từ đây còn bao nhiều đàn cơ, Thầy sẽ bổ túc thêm cho đến ngày thành tựu đó môn đồ.
Đó là về phần chính, còn những phần phụ thuộc là tùy môn đồ sử dụng phương thức điều hòa cho hợp lấy thiên thời địa lợi đó môn đồ.
BÀI :
Chuyển linh cơ dụng chơn dương điển,
Lập chánh tông điều khiển nhơn hòa;
Hợp đồng bản thể người ta,
Đứng đi vẫn một điều hòa không hai.
Luật tuần hườn đổi thay chớp nhoáng,
Máy càn khôn vận hạn bày khai;
Biết chăng mở Đạo Cao Đài,
Minh Chiêu sáng lập hòa hai thiên thời.
Dụng tinh thần không dời chẳng đổi,
Lấy tinh ba nhịp trổi hơn đời;
Biết chăng theo máy thuận thời,
Biết chăng nhơn đạo chiều mơi suy tầm.
Sơ nhứt chuyển luyện tâm tu kỷ,
Nền tảng xây tinh khí hòa đồng;
Dục tình chôn chặt đáy lòng,
Thập tam ma chướng đả (đã) thông đơn đầu.
Sơ nh chuyển cơ mầu huyền bí,
Bế ngũ quan thiên khí tụ hình;
Vận hành nhựt nguyệt tú tinh,
Khẩu truyền tâm thọ phát sinh đạo mầu.
Sơ tam chuyển giao đầu thiên hậu,
Tuyệt hậu thiên cơ cấu bảng danh;
Công phu lóng trược tồn thanh,
Khai thông cửu khiếu trường sanh đời đời.
Sơ tứ chuyển máy Trời ứng hóa,
Vượt ngoài vòng thoát cả trầm luân;
Tập trung tư tưởng huân chuân,
Luyện phanh thần khí bản thân nhẹ nhàng.
Sơ ngũ chuyển nên tàng máy nhiệm,
Định ngươn thần tìm kiếm huyền linh;
Anh nhi kết tạo trong mình,
Điều hòa cơ thể Đạo Huỳnh cao siêu.
Sơ lc chuyển tam tiêu tụ đỉnh,
Tâm trống không tu chỉnh căn nguyên;
Trần hồng dứt sạch oan khiên,
Khai thông cửu khiếu, Thánh Tiên tại phàm.
Sơ thất chuyển phù tam hạo khí,
Vận tinh thần phục thỉ linh tiêu;
Sen vàng nở nhụy làm phiêu,
Rỡ ra bảy búp thiên triều hồi môn.
Qua bát chuyển thanh tồn trược biến,
Qua cung nầy vận chuyển Kim Tiên;
Vô tả hữu, vô hậu tiền,
Vô ưu, vô lự, vô phiền tâm an.
Lửa cung ly nấu vàng cung khảm,
Lọc âm dương hai tám thành cân;
Điển quang cư ngụ xác thân,
Làm sao tránh khỏi bản thân luân trầm.
Sơ cửu chuyển lôi âm toại hưởng,
Mặc vân du tứ hướng cõi Trời;
Cờ Tiên rượu Thánh vui chơi,
Ca ngâm thi vịnh thảnh thơi thanh nhàn.
Đây Tệ Huynh đôi lời lưu lại, Thiên Mạng đàn tiền tri tường cùng hiền môn đồ chung tâm thực hành nguyên ý, đó là một điều tiến thủ nơi lòng cương quyết môn đồ đã định.
Vậy Thiên Mạng thành tâm tiếp lịnh. Tệ Huynh giã từ Thiên điển. THĂNG./.
o

1.11 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ CƠ QUAN
PHỔ THÔNG GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO (SÀIGÒN)

THIÊN LÝ ĐÀN, Tuất thời, 14 - 01 Bính Ngọ (04-02-1966)
AN HÒA THÁNH NỮ. Chào chư thiên mạng. Chào chư hướng đạo và liệt vị đàn tiền. Thánh nữ được lịnh truyền: tiếp theo đây sẽ có hàng tiền bối, đạo hữu giáng cơ. Chư liệt vị khá bình thân, không quỳ, không ngồi. Thánh nữ chào chung, xin lui điển.
TIẾP ĐIỂN
THI
Chẳng tiếc công mà chẳng mến danh,
Nguyện sao Đại đạo sớm viên thành,
Cho đời giảm bớt cơn điêu đứng,
Cho khỏi luân hồi nẻo tử sanh.
NGỌC TRANG THANH, Tiên Huynh mừng chư hướng đạo. Xin nhường bút anh Bản.
TIẾP ĐIỂN
THI
Đạo sĩ màng chi chốn vị danh,
Mặc ai tài cán đắp Trường thành,
Rửa tai e bợn mùi vương giả,
Nương gót đường mây lánh tử sanh.
ĐOÀN VĂN BẢN, Tiên Huynh mừng chư hướng đạo. Xin nhường bút Ngô Đại Tiên. Tiên Huynh xin lui điển.
TIẾP ĐIỂN
THI
Lòng không tham luyến nẻo công danh,
Đại đạo chiêu minh chí vẹn thành,
Nhắn nhủ người đời noi chánh pháp,
Huyền vi chánh pháp ở nhơn sanh.
NGÔI HAI GIÁO CHỦ NGÔ MINH CHIÊU, Bần Đạo chào mừng chư hướng đạo. Vừa rồi các Tiên Huynh tiền bối, tiếp theo dấu trước của các Tiên Huynh hôm xuân nhựt giáng cơ, trước thăm viếng chư hướng đạo và để chứng tỏ ủng hộ tán trợ đường lối hành đạo của chư hướng đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Chư hướng đạo hãy nghiêm chỉnh điện tiền, tiếp điển Chí Tôn giá ngự. Bần Đạo xin lui.
&

 1.12 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
MINH ĐỨC TU VIỆN (VŨNG TÀU)

Rằm tháng 6 Nhâm Tuất (3.8.1982)
THI
MINH thành mới phá nỗi âm u,
CHIÊU tập kim quang vẹt ngút mù;
ĐẠI Đạo giáo nhơn tiên chỉ niệm,
TIÊN phàm do chỗ quyết trì tu.
Bần đạo mừng tam đệ và hiền muội. Vâng Tôn Ý ĐỨC LÃO TỔ, Bần Đạo đến hôm nay để dìu dắt người Thiên ân sứ mạng trên đường tu tánh luyện mạng để hoàn thành sứ mạng mà THƯỢNG ĐẾ ban trao.
            Này nhị đệ ! Kim Đơn Đại Đạo không có chi rằng khó, vì mang tấm thân huyết nhục trong cõi đời nhị nguyên đối đãi này thì có ai lại không bị thất tình lục dục nở sanh duyên cảm cùng ngoại cảnh ngoại vật mà kết thành nghiệp lực trái oan. Nếu không biết giác ngộ hồi đầu, hột giống thức ấy vẫn còn sanh mầm từ kiếp này sang kiếp khác. Mầm ấy là mầm vô minh dục vọng kết thành vòng xích luân hồi sanh tử mãi mãi lăn trôi theo cuộn sóng đời buồn vui yêu ghét, cười khóc nhục vinh,... Rời bỏ lớp vỏ này mang lớp vỏ khác, phú bần, quí tiện. Nhưng xét lại đường tiến hóa lên chốn thanh cao đài tiên cửa phật thì ít, làm được thánh hiền tiên phật, trượng phu quân tử cũng ít. Tóm lại con người có bao nhiêu mà số đọa lạc trầm luân không số đếm.
            Thế nên người sứ mạng Thiên ân còn phải thấy trách nhiệm của mình, càng phải cố gắng thêm hơn.
            Này chư đệ ! Sở dĩ Bần Đạo nói Kim Đơn Đại Đạo không có chi rằng khó, vì đó là bộ máy sống của con người còn đang vận hành hòa nhịp theo sanh cơ của Trời đất mà cái điểm thông thần nhập diệu của nó là tâm. Bởi một phút vô minh nên bị hư hỏng trở ngại nên không cùng trời đất luân chuyển. Khó là tâm còn mê chưa giác. Khó là khó tâm đã giác mà chưa đoạn được tình thức nghiệp oan.
            Người ra đi nhớ lại nguồn xưa, muốn quay về mà tâm còn chưa quyết, còn dùng dằng, còn luyến tiếc những cái quanh mình, bên mình, mà mình còn yêu mến thiết tha. Thọ ái đã làm mềm lòng hành giả. Bộ máy không được như buổi đầu. Ánh huệ đăng leo lét trong bốn miếng kiến màu khi trời sắp hoàng hôn. Thực tế đã làm cho hành già hoài nghi lại chính mình, không tin ở mình, đã đi đến nơi thì phải về đến chốn.
            Kim đơn là thần khí. Luyện nội đơn là luyện thần khí.
            Tu thượng thừa là tu tánh mạng, không cần hành giả phải tìm kiếm cầu mua, mà chỉ cần hành giả có tâm hoàn toàn giác ngộ, chí dõng mảnh. Biết được cái chơn thì phải giữ cái chơn ấy. Đừng biết được cái chơn mà ôm chầm lấy cái giả. Đó là mê vọng.
            Nay chư đệ đã được thọ chơn truyền chánh pháp tâm chí đã có kiên lực kiên trì cầu tu giải thoát, phá mê phá chấp, chỉ còn một yếu điểm nữa là Đức Tin.
Tin ai ? Tin Thầy tin bạn cũng chưa đủ, còn phải tin mình.
Thầy thì dạy bảo, bạn nương cậy dìu dắt. Mình phải tin mình có nguồn cội, có điểm linh quang Thiên phú. Có như vậy mới đủ thần lực để soi vào phá bóng vô minh còn phảng phất áng che. Giữ lòng thanh tịnh rỗng rang để diệt gai gốc phiền não vướng chân khi hành giả trỗi bước hoàn nguyên phản bổn.
            Hấp giáng hô thăng. Trong giáng có thăng, trong thăng có giáng. Hô hấp là Hậu Thiên, mà giáng thăng là Tiên Thiên, hai khí hòa hiệp sanh cơ là do yểu minh hoảng hốt.
            Muốn đặng như vậy phải kiên trì tu luyện cho đến sanh cơ thì thể dược tức là trúc cơ đó vậy.
            Trong phép luyện đơn, khó nhứt là ở đây. Hành giả phải cố gắng tham luyện cho đến khi có thể được mới dùng đến hấp thăng hô giáng. Trong thăng có giáng, trong giáng có thăng, như ống bể lò rèn. Dùng trong thời hầu mà phanh luyện.
            Bần Đạo bảo thế không phải tịnh công là phỗng đá, là như mộc thạch, mà vẫn nghe, mà nghe vào trong, ngó là ngó vào trong. Hay "Thính thị ngôn động tình không nhiễm trần." Đó là tin ở mình, là điểm cốt yếu để biết mình và tự thắng mà chứng đắc.
            Chư đệ nên nhớ :Kim đơn là thần khí. Luyện nội đơn là luyện thần khí. Tu thượng thừa là tu tánh mạng. Nó sẽ bị gián đoạn ở tai ở mắt. Tai nghe ra thì khí tổn thương, mắt nhìn ra thì thần tán loạn. Do đó mà chư đệ cần nhớ những lời dạy trên.
            Nay chư thiên ân có may duyên trên đường sứ mạng nên được Đức Lão Tổ truyền trao diệu pháp trong cửa huyền môn và được thọ trì nội công hấp khí, vừa luyện thần, vừa tu hình. Nên ngoài các pháp môn luyện hình trong giờ công phu tứ thời, chư đệ cần tham luyện triệt nhứt là cuối giờ Hợi, đầu giờ Tý sẽ là khoảnh khắc có được trạng thái nói trên, cho đến khi cảm thấy thân hình sảng khoái lúc xả thiền mà không thấy mệt. Cứ liên tục như thế trong 15 ngày sẽ thấy ấn chứng.
            Điều kiện nữa cũng tối trọng, là ngoài giờ công phu, hành giả phải triệt để trụ thân nơi THẦN thất, đừng để xao lãng. Nếu không thì 15 ngày nữa cũng chưa được kết quả. Trong khi hô hấp bằng miệng mũi mà ý còn xao động thì không nên.
THI
            Lọc lừa chơn pháp để truyền tâm,
            Chí đạo chí tâm sẽ chẳng lầm;
            Đệ nhứt huyền công tam bửu giữ,
            Gìn lòng hành giả sẽ diệu thâm.
            Hôm nay Bần Đạo tạm bao nhiêu, sẽ dạy tiếp, chư đệ cần hành những lời chỉ dẫn trên rồi sẽ được ban ơn thêm. Nếu không hành được thì khó học được bước kế tiếp. Chỉ cần một tháng kiên trì sánh bằng một năm, chư đệ lưu ý. Bần đạo ban ơn...
            (Bạch Lương Ngọc bạch....)
            Hiền đệ đọc kỹ lời Bần Đạo vừa dạy trên. Chư đệ cố gắng. Bần Đạo mong chờ sự thành công của nhị đệ, thăng .
o

1.13 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
TÂYTHÀNH THÁNH THẤT (CẦN THƠ)

Ngày 27 tháng 9 Giáp Dần (10-11-1974)
NGÔ ĐẠI TIÊN MINH CHIÊU, chào mừng chư hiền đệ hiền muội Thiên ân hướng đạo và chư đạo tâm nam nữ. Với tư cách một người anh của chư hiền đệ, hiền muội, người thọ ân điển ban trao quyền pháp đạo buổi đầu tiên, Tiên Huynh đến đây để tâm tình đạo sự cùng chư Thiên ân hướng đạo, chư đạo tâm nam nữ. Miễn lễ mời đồng an tọa.
THI
Sứ mạng Cao Đài buổi trước tiên,
Vô vi tâm pháp độ người hiền,
Tam kỳ mạt hạ khai chơn lý,
Dẫn dắt người phàm có thiện duyên.
Nhìn lên điện tiền, Tiên Huynh cảm kích những người bước sau Tiên Huynh phải chịu nhiều điều thử thách gay go với sứ mạng tận độ kỳ ba nầy.
Tiên Huynh muốn bảo với chư hiền đệ hiền muội rằng tại tỉnh Cần Thơ nầy đã xuất xứ bao nhiêu người nguyên nhân hướng đạo. Dở từng trang sử đạo để tìm dấu vết các hàng nguyên nhân ấy đối với chư hiền đệ hiền muội như một bóng mờ, có sáng tỏ chói rọi chăng là tùy thuộc từng tổ chức, chi phái trong nhứt thời. Nói là nói vậy chớ danh từ đối với thế nhân, người đạo đức chơn tu không đặt vấn đề quan trọng mà quan trọng lối tiến hành của các người môn đệ có trách nhiệm đương vi hiện hữu mới là đáng lưu ý. Nhưng Tiên Huynh rất buồn trước thế loạn đạo phân ly, nhơn tâm thất tán. Chính hiện tại chư hiền đệ hiền muội đắc Thiên ân từ lâu cho đến hiện giờ cũng chưa xây tạo được một Cao Đài cứu thế tại tỉnh nhà. Tiên Huynh nói như vậy chư hiền đệ hiền muội ắt cho Tiên Huynh lầm chăng? Vì tỉnh Cần Thơ nầy, ngoài Tổ Đình Chiếu Minh, còn biết bao nhiêu tòa nhà được xây đắp dưới bảng hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Cao Đài Đại Đạo. Có thì có rất nhiều, nhưng về quyền pháp đạo cũng như tâm pháp chưa được thấm nhuần trong tâm khảm của các hàng hướng đạo hay tín đồ của Đức Chí Tôn nên chi tất cả những phương tiện kia đã làm cho người Thiên ân hướng đạo lầm lẫn đó là đạo, là sự thành công trong việc phổ độ nhơn sanh hay cứu rỗi những linh hồn siêu thăng thoát tục.
Xưa kia Lương Võ Đế cất 72 cảnh chùa, chư hiền đệ ngày nay muốn tạo một ngôi thánh đường, thánh thất cũng lắm công chật vật thì so làm sao được với Lương Võ Đế ngày xưa. Trái lại, Lương Võ Đế phải Đài thành ngạ tử, vì không biết dụng tâm pháp Đại Đạo mà chỉ nhắm vào phương tiện hữu vi làm cứu cánh nên chịu thiệt thòi một kiếp tầm tu, chư Thiên ân hướng đạo ngày nay cũng nên suy nghiệm những tích xưa để khỏi phải bị vật chất hồng trần hữu hình làm cho rối rắm lương tri, lương năng hằng tánh của Thượng Đế phát ban. Người lữ hành nào cũng dùng phương tiện để qua bờ pháp. Đến bến phải rời phương tiện để về với bản thể nguyên nhân, nếu còn ôm chầm lấy phương tiện ấy thì bao giờ thành công chứng quả! Hiện tình thế sự ngày nay toàn thể nhơn loại nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng, đều ở trong vòng hạ nguơn chuyển thế, dầu muốn dầu không tất cả các vai trò của thế nhân phải đóng cho trọn vẹn.
Chư hiền đệ, hiền muội! Đức Cao Đài Thượng Đế khai Đạo kỳ ba dụng hình tướng hòa đồng vạn giáo, dụng tâm pháp độ rỗi nguyên căn, những người đã tự nhận là chức sắc, chức việc, Thiên ân hướng đạo, tất phải lưu ý rất nhiều trên công cuộc chuyển xoay của đời cũng như của Đạo. Chư hiền có nhìn thấy tất cả công cuộc diễn tiến từ mấy mươi năm thiên tai, chiến họa, người lành cũng lắm lúc phải cộng nghiệp với chúng sanh. Cho đến bây giờ những khối dục vọng vẫn trưởng thành trong lòng thế nhân nên các vai tuồng của một sân khấu đời đang được biểu diễn, luật vô tư của trời đất cứ tuần tự tiến hành. Kẻ đóng vai trung, người mang vai nịnh, tất cả vua chúa khanh tướng, công hầu trên sân khấu đời đang múa may mà vai nào cũng được số khán thính giả xem coi, nhưng rồi đây họ sẽ không còn hát nữa, và khán giả cũng không xem nữa, vì qua một tấn tuồng lòi chân tướng thật sự rất phũ phàng đối với người kép hát hay những kẻ đi coi. Chư hiền đệ hiền muội là người chức sắc, người Thiên phong sứ mạng hướng đạo lãnh đạo, có thể đặt mình trên mọi vai trò đạo lý chớ không thể đóng một vai kép trong ván tuồng đời. Nếu không đóng một vai kép trên sân khấu đời thì chư hiền đệ cần gì phải nhọc công biểu diễn hay đòi hỏi một số khán thính giả để theo mình. Nếu chư hiền đệ có muốn đóng vai trò ấy, cũng rất đơn độc, không phải được đầy đủ như sân khấu đời, vì đạo lý là thanh tịnh vô vi, đạo lý là lẽ hằng sống của mọi người nên không thể tạo thành một sân khấu như trò đời được.
Kể đến công lao hành đạo của chư hiền cũng có nhiều điểm đáng ghi chú. Chư hiền đệ là những người chức sắc kỳ cựu theo bước của các hàng Tiền Khai Đại Đạo để giữ gìn cơ Đạo, phổ độ nhơn sanh, đáng lý ngày giờ này tại nơi đây sẽ được khang trang chỉnh đốn và người vô vi với người hiện tại tương ứng, tương phò độ rỗi nhơn sanh thoát vòng khổ nạn chứng quả vô sanh. Nhưng hiện giờ mỗi người đều có mỗi phương tiện riêng tư, phương tiện đó cũng ích lợi, nhưng sự ích lợi có một mà hại đến ba vì các phương tiện sẽ không đủ sức giúp hành giả theo ý muốn của mình là chở khách sang sông.
Hôm nay, Tiên Huynh muốn đem những lời tâm huyết của một người anh để khuyên chư hiền đệ, hiền muội suy gẫm việc đã làm, việc đang làm và việc sẽ làm hầu chọn một con đường đúng với chơn truyền chánh pháp phổ độ nhơn sanh. Người tu hành khi hiểu đạo không còn bản ngã để cho tâm đạo được quang minh, lý đạo được thông suốt. Cái bản thể tuyệt đối ấy nằm trong con người của chư hiền đệ, hãy tìm lại, hãy trau dồi, đừng nhắm vào sự tương đối rất uổng công phu bao nhiêu năm trời nhứt tâm hành đạo.
Chư hiền đệ! Vai trò của người hướng đạo cứu thế độ đời, chữa bệnh trầm kha vô minh của nhân loại cũng giống như vai trò những vị lương y cứu chữa bịnh đời cho thế nhân. Mỗi chứng bịnh phát sanh đều có nguyên nhân của nó, mỗi vị dược thảo đều có công dụng riêng theo tánh dược của nó, không chứng bịnh nào mà không có thuốc chữa trị. Nếu có một hoặc đa số bịnh nhân không trị được đó không phải là tại không thuốc mà chính là tại chẩn mạch chưa tới hoặc đầu thang không đúng của vị lương y còn non kém chủ quan. Muốn cây được tươi tốt cần phải vun phân tưới nước tại ngay gốc rễ chớ không phải ở nơi nhánh lá. Đập rắn thì đập đàng đầu chớ không phải đập đàng đuôi. Tiên Huynh cũng muốn nói thêm về hai chữ Đạo vô vi hay là vô vi chi Đạo cũng thế. Tại sao Tiên Huynh lại dùng hai chữ vô vi? Vô vi không có nghĩa là không làm hoặc không hình, không tướng, còn hữu vi cũng không có nghĩa là có làm, có hình, có tướng. Nếu chỉ câu chấp định nghĩa như thế tức là chưa hiểu được Đạo là gì? Có ai nghĩ rằng tướng của nước vẫn giống với tướng của đất, của lửa, của cây cối thảo mộc hoặc của kim loại chăng? Nếu nói không giống thì không đúng, còn trái lại nếu nói giống là giống ở chỗ nào? Bởi nhơn sanh ưa chấp tướng nên mỗi mỗi việc chi cũng đều nhìn ở khía cạnh hữu hình, hữu tướng, chi nên không thấy được đồng nhứt nguồn mạch phát sanh của nó.
Câu “Đạo pháp trường lưu” lâu nay cũng thường được đề cập tới, nhưng người tín hữu cũng như hàng Thiên phong chức sắc chức việc, chỉ đọc phớt qua, mấy ai chịu khó phân tách ngọn nguồn, nghĩa lý của nó. Đã nói là đạo pháp trường lưu, lưu là trôi là chảy như dòng nước ở chốn kinh rạch sông ngòi, nơi biển cả đại dương, tánh chất của nước đâu nào thay đổi hoặc có hình tướng chi đâu. Cái công dụng của nước là mạch sống giúp đời trong muôn mặt, mỗi một mặt đều dùng một dụng cụ riêng để hút nước, dẫn nước, hoặc chứa nước cho tiện dụng mỗi trường hợp. Nhưng khi nước bị thâu vào chứa đựng trong mỗi dụng cụ đựng nó thì nó bị biến ra nhiều hình tướng khác nhau vì vật chứa đựng nó. Người đời bởi chấp tướng bèn nói rằng: vật này khác với vật kia vì hình tướng tròn vuông, dài ngắn, cong ngay, cao dẹp, sâu cạn khác nhau.
Ôi! Nước đâu nào có tướng. Bản chất nước cũng chẳng có hai, nếu có chăng bởi tại cái nhìn phiến diện câu chấp của nhân thế. Ôi! Đạo đâu nào có tướng, nhưng khi người ta đem cái vỏ để tròng vào cái Đạo thì Đạo lại biến sanh nhiều hình nhiều tướng.
Tạo Hóa đã sanh muôn loài vạn vật thì Tạo Hóa cũng cung cấp mọi nhu cầu cho vạn vật để phát triển bảo tồn, nhưng sự cung cấp cho nhu cầy ấy cũng tùy theo trường hợp, tùy theo đặc tính của mỗi vật, của mỗi căn trí. Những vật thể nó có là vì đức háo sanh của Thượng Đế muốn thỏa mãn nhu cầu của nó, nhưng nhân thế vì chấp tướng nên lần hồi đi đến chỗ sai thất chơn truyền bại hoại căn bản của nó. Thôi, thà là dòng nước để tự nó luân lưu khắp chốn kinh rạch, sông ngòi, biển cả đại dương, để được giữ vẹn vô tướng của nó. Còn Đạo cũng thế, vì muốn độ đời nên Chí Tôn Thượng Đế mở Đạo cho lồng vào những thể tướng của các tôn giáo khác nhau.
Người đời vì chứng bịnh vô minh chấp tướng nên Đạo ở hoàn cảnh đó chẳng những không cứu được đời mà lại cũng không cứu được chính bản thân của hành giả đương sự.
Ôi! Thà để cho dòng Đạo tự do âm thầm lặng lẽ luân lưu trong vạn vật. Đạo nào có nói đâu, nhưng đã hiện tướng lên trong ngàn kinh muôn điển, trong triệu triệu những áng văn thơ tuyệt tác. Đạo có nói chi đâu, nhưng Đạo đã thể hiện trong tình thương của loài hổ dữ nhưng chẳng ăn thịt con. Đạo có nói chi đâu, nhưng đã hiện tướng trong tình thương che chở của gà mẹ ấp ủ bầy con dưới đám diều hâu đói khát thịnh nộ. Đạo có nói chi đâu, nhưng đã hiện tướng trong bốn mùa tám tiết, điều hòa dưỡng sanh vạn vật, v…v…và v.v…
Những ngôn ngữ, những hình tướng tôn giáo, đoàn thể đạo đức, những tổ chức hành chánh đạo v.v…. Tất cả đều là những phương tiện để giúp hành giả đạt đến cứu cánh. Đừng chấp lấy phương tiện làm cứu cánh mới mong khỏi ôm ấp cái mộng hão huyền. Tiên Huynh cũng muốn nói thêm về tu tâm luyện tánh. Từ ngữ này nghe quen quá, đến nỗi muốn nhàm tai, nhưng thử hỏi lại coi, từ tín hữu đến chức việc Thiên phong chức sắc, có được bao nhiêu người biết được tâm tánh của chính mình là sao? Tâm tánh mình có mấy loại, loại nào chân, loại nào giả, có ai biết chăng? Vả lại, nếu có người nói rằng: Tâm chơn đó là Tâm Phật, là Thượng Đế tính thuần chơn vô ngã, vô chấp, vô cấu; còn tâm giả là thất tình lục dục, hỉ nộ tham sân, v.v.... Nói thì nghe rành lắm, nhưng có khi nào mình thật tâm với mình, can đảm nhìn nhận những gì do giả tâm khởi dấy hay cứ mãi chủ quan, khư khư bảo thủ ôm chầm lấy cái "Ta". Phật xưa hằng ngày hằng giờ hằng phút hằng giây đều đem cái lý đó trước tòa án lương tâm để phán xét. Từ xưa đến nay, người tu thì nhiều, người đắc Đạo thì ít, cũng tại chỗ đó. Tôn giáo mệnh danh là Đạo cứu đời mọc lên như nấm, nhưng đời chẳng những chưa được cứu lại càng khổ thêm, cũng tại nơi đó. Tiêu ngữ Cao Đài giáo là qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi, nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp Cao Đài là một tỉnh còn chưa qui hiệp được, cũng tại chỗ đó.
Vì nhận thấy chư hiền Thiên phong chức sắc Tam Kỳ Phổ Độ đã lăn lóc, lặn hụp gần hết cuộc đời mình cho Đạo nghiệp. Tiên Huynh nóng lòng vì chỗ chưa đạt lý ấy của Đạo cho mỗi hành giả nên dùng bao nhiêu lời tâm tình đạo mạch thương yêu để nói nhau, thỏ thẻ bên tai, trong phòng riêng đóng cửa, giữa tình huynh đệ, kẻ u người hiển, ai là vị lương y chẩn mạch đúng, đầu thang hay, ai là người phân biệt được cái chơn và lẽ giả, ai người hiểu rốt ráo lẽ vô vi, điều hữu tướng; ai người ý thức được dòng lưu thủy của Đạo Pháp trường lưu, ai là người ý thức được sứ mạng thế Thiên hành hóa, hướng dân vi thiện, tự giác giác tha, ai người lấy phương tiện để đạt đến cứu cánh mà không dùng cứu cánh để làm phương tiện; hãy suy tư, hãy bừng tỉnh Thiên tâm để ánh sáng Thiên lương rọi vào Thượng não hành tròn sứ mạng để không uổng phí một kiếp vi nhân. Con đường Tiên Huynh đã đi là con đường chư hiền đệ đang đi, những việc Tiên Huynh đã làm là những việc chư hiền đệ đang làm, những ước mơ cao cả mà Tiên Huynh đã ước là những ước mơ mà chư hiền đệ đang ước, nhưng có khác nhau ở chỗ là con đường đi Tiên Hunh đã đến đích, việc làm Tiên Huynh đã thành công, ước mơ Tiên Huynh đã toại nguyện. Chư hiền đang đi giữa đường, chư hiền đang làm dang dở, chư hiền chưa đạt ước mơ, hãy cố gắng thêm lên, hãy khêu ngọn đèn từ huệ, hãy chùi ống khói của ánh tâm đăng, hãy nhường chỗ cho Chí Tôn Thượng Đế ngự thật sự bền bỉ nơi tâm não của mỗi hiền, hãy khách quan xét nét việc làm trong muôn một thì còn lo chi đường đi chẳng đến, việc làm chẳng thành, ước mơ chẳng toại.
THI
Thượng Đế đã ban phép nhiệm mầu,
Mỗi người đều có tại song mâu,
Siêng năng mài giũa năng trau luyện,
Chẳng ở đâu xa, ở đỉnh đầu.
Chư hiền đệ ôi! Đạo lý rộng sâu, chân lý vĩ đại, nhưng lời diễn tả có giới hạn, tình thương của Tiên Huynh đối với chư hiền không biên giới, nhưng tâm tình đàm đạo chỉ một trong muôn. Tiên huynh mong rằng chư hiền sớm hoàn thành sứ mạng được trao phó trong mỗi người. Việc qui Tam Giáo, hiệp ngũ chi truyền bá Đại Đạo khắp năm châu bốn bể, khoan đề cập đến. Nên hành ngay tình thương hòa ái, thật hành chánh đạo giữa nghĩa đệ tình huynh, nên thực hành thể tướng đạo Cao Đài nhứt lý tại vùng nhỏ hẹp Tây Đô. Hễ gom một thì giàu, chia ra thì khó.
Đêm cũng đã khuya, tình đạo còn dài, Tiên Huynh xin tạm dừng nơi đây, hẹn còn ngày tái ngộ trong sự vinh quang tỏ rạng, sáng danh Đạo, danh Thầy nơi thánh địa Tây Đô này.
Chư hiền nên nghĩ cho Tiên Huynh với tấc dạ chơn thành, tình thương thật sự không máy móc, chẳng gần xa. Đó mới thật là thương và việc khác Tiên Huynh sẽ vui lòng đạo đàm thêm nữa, rất lòng thương mến, thật dạ yêu đương. Tiên Huynh xin chào tất cả. Lui./.
Ì

1.14 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ
CHIẾU MINH
ẨN GIÁO (CẦN THƠ)

Tý thời, mùng 8 tháng 8 Đinh Hợi (22.9.1947)[6]
            Thầy mừng các môn đồ.
THI
NGÔ đồng chim trỉ trở về nguyên,
HAI nẻo giã chơn nắm mối giềng;
GIÁO Đạo Kỳ cùng dìu trẻ dại;
CHỦ tâm ẩn nhẩn khỏi cơn phiền.
            Các con an toạ nghe dạy :
BÀI :
Đời đương lúc chinh nghiêng biến loạn,
Đạo gìn tâm đừng ngán mới hay;
Giữ cơn giông tố lạc loài,
Chú tâm nhớ niệm Cao Đài bản danh.
Vững tâm trí tu hành sớm tối,
Nước lớn ròng thay đổi không chừng;
Bởi vì thời cuộc lưng chưng,
Mối giềng nắm giữ xin đừng lãng lơ.
Thuyền gần tiến đến bờ Tây Vức,
Gặp giông to thổi dựt thuyền trôi;
Vững tâm chờ đợi qua hồi,
Lăng xăng thay đổi e rồi khốn nguy.
Hiền sĩ ôi! Lần đi kịp bước,
Đời trả vay xuôi ngược không lường;
Quả trần còn thẩm du dương,
Người tu đâu có vào đường lấn chen.
Đời ví dụ như đèn châu chấu,
Đạo sĩ hiền nung nấu tinh thần;
Nguyện cầu cứu khổ ân cần,
Ở đâu tuỳ đó vẹn phần thì thôi.
Đời xoay đổi nay trôi mai tấp,
Xô xát người dồn dập bao phen;
Tử sanh cuộn cuộn đua chen,
Hiền hung tuy lộn chớ chen theo đời.
Còi giục thúc lưng vơi mạt thế,
Cả nhơn sanh khổ hệ đâu đâu;
Vì cơ tận diệt đáo đầu,
Chọn hiền đức cả bắt cầu thượng ngươn.
Dẫu cho máy tuần hườn biến chuyễn,
Bổn phận tu dồi luyện đừng nao;
Tuy trong biển khổ ồn ào,
Chớ điều tà chánh Thầy trao quỉ Thần.
Tuỳ theo chỗ mạng phần người tạo,
Để trả vay quả báo cho rồi;
Lập đời thượng cổ yên nơi,
Chớ đâu phải vậy mà người đua chen.
Nhiều màn diễn múa men đổi lớp,
Ẩn mà tu miễn hợp thời thôi;
Cơ quan thay đổi qua rồi,
Có ngày Thầy chuyển phục hồi như xưa.
Nay tuỳ thế cho vừa ý thế,
Đàn bất thường phổ tế canh thâm;
Có Thầy Phật Thánh giáng lâm,
Chỉ cho mà bước khỏi lầm bàng môn.
Hiền THANH có tâm hồn lo đạo,
Công quả cao khá tạo như xưa;
Dẫu rằng thời cuộc đỏng đưa,
Bền lòng nắm giữ muối dưa tuỳ thời.
Hiền CHI biết lưng vơi thời cuộc,
Buổi khổ chung bắt buộc phải tuỳ;
Đừng than khổ cực đường đi,
Bởi vì trong buổi loạn ly mới vầy.
Hiền trở bước có Thầy ủng hộ,
Niệm QUAN ÂM cứu khổ ccho đi;
Nhờ gìn từ tí từ ly,
Trắng đen còn lộn bạc chì chưa phân.
            Các hiền khi hữu sự thì xin xâm của Khương Thượng, đó là tự tay của mình cầm cơ trọn đức tin thì đúng y lời nguyện. Vì kể từ đây phận sự cơ quan có khi thay đổi không đủ mặt.
            Canh thâm, Thầy ban ân các con hiền. Thượng ỷ, xin kiếu./.
Ì

1.15 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN VÀ CHƯ TIỀN KHAI
ĐẠI ĐẠO giáng cơ CAO ĐÀI HỘI THÁNH
(DƯƠNG ĐÔNG PHÚ QUỐC)

Tuất thời 14 tháng 3 năm Đinh Mùi (23.4.1967)
- Lễ Kỷ niệm ĐỨC NGÔI HAI GIÁO CHỦ NGÔ ĐẠI TIÊN
THI
GIÁC thế hồi tâm học Đạo Trời,
MINH tường giáo lý độ người đời;
KIM thân muốn đặng thay phàm thể,
TIÊN ý cần trau chớ đổi dời.
            GIÁC MINH KIM TIÊN chào chư Thiên mạng, chào mừng chư hiền hữu, hiền muội.
            Vâng lịnh NGÔI HAI GIÁO CHỦ NGÔ ĐẠI TIÊN dạy hiền hữu TỰU VÀ TRUYỆN hãy sắp đặt một bàn rượu trà hoa quả, vì NGÔ ĐẠI TIÊN có thỉnh chư Tiên Phật giáng đàn chứng lễ. Vậy được phép xả đàn 15 phút để chư hiền hữu chuẩn bị cho được nghiêm chỉnh. Hiền muội điển ký giùm bình lại...
            Chào chư Thiên mạng và chư hiền hữu hiền muội, xin kiếu ./.
            TÁI CẦU
THI
Cảnh trí thiên nhiên trước sắp bày,
Huyền vi lố bóng đạo hoằng khai;
Non sông bốn mặt Trời soi sáng,
Nhơn vật mười phương đất chuyển xoay.
Sứ mạng Tam Kỳ trao Việt quốc,
Chủ quyền nhứt thống lập Cao Đài;
Hạ Nguơn sĩ tử mau mau bước,
Ổn định càn khôn đã đến ngày.
            NGÔ MINH CHIÊU, Tiên Huynh chào chư Thiên mạng, chào mừng chư hiền hữu hiền muội. Thầy mừng chư đệ tử.         
Hôm nay, chư đệ tử thiết lễ kỷ niệm để nhớ ơn Thầy, và thay mặt Thầy mời chư đồng đạo các nơi quy tụ đến mảnh đất nhỏ hẹp nầy để đánh dấu lịch sử ngày Thượng Đế ban biểu hiệu cho Đạo Cao Đài trong kỳ ba ân xá. Thầy rất mừng và cảm động vô cùng trước nỗi ưu tư của chư đệ tử đối với tiền đồ nền Đại Đạo Cao Đài.
            Kỳ lễ năm nay có phần đặc biệt hơn hết là Thầy có thỉnh chư Tiên Phật và đạo hữu Tiền Bối quá vãng đến chung vui với Thầy, với chư hiền đệ hiền muội và chư đệ tử.
            Chư hiền đệ hiền muội ! Trong những ngày qua chí đến ngày nay, Tiên Huynh nhận thấy lòng ưu tư và thiết tha đến ngày kỷ niệm nầy của chư hiền đệ hiền muội, nên chư hiền đệ hiền muội từ các phái đoàn các nơi, đến thành phần cá nhơn, đã vượt sóng ngàn khơi đến để tưởng nhớ và hân hoan ghi nhận nơi đã phát sinh di tích Đạo Cao Đài. Để long trọng hóa buổi lễ hôm nay, hầu tưởng thưởng đáp lại lòng ưu tư và gian khổ đó, nên Tiên Huynh có thỉnh chư Tiên Phật và đạo hữu Tiền Bối quá vãng trong Đạo Cao Đài đến chứng lễ và chung vui với chư hiền đệ hiền muội cũng như các hàng đệ tử trong tình Thiêng Liêng và lý đạo.
            Đây Tiên Huynh tạm nhường bút các vì Tiên Phật, rồi sau đó sẽ đàm đạo thêm, ngưng điển ./.
            TIẾP ĐIỂN
THI
Thiên quang vũ trụ ánh muôn màu,
Quyền pháp Tam Kỳ một túi thâu;
Chuốc chén kim tương cùng thế sự,
Có ai theo Lão đến vườn Đào.
            ĐỘNG ĐÌNH TIÊN TRƯỞNG.
HÒA NGUYÊN VẬN
Nước trí non nhân đẹp sắc màu,
Thiều quang nhặt thúc nhẹ tay thâu;
Vị lòng Tiên Trưởng lâm trần thế,
Mở ngõ nguyên nhân đến động Đào.
            NAM CỰC TIÊN ÔNG.
HÒA NGUYÊN VẬN
Muôn cành sen thắm trổ muôn màu,
Lơ lửng dòng đời chọn khách thâu;
Ai có chánh tâm gìn chánh đạo,
Kề chơn ghé bước lại nguồn Đào.
            TỪ HÀNG CHƠN NHƠN.
HÒA NGUYÊN VẬN
Trời nước bao la vẻ một màu,
Quần Tiên hội yến giữa canh thâu;
Soi lằn quang điển cho trần thế,
Rước khách chơn tu đến động Đào.
            ĐÔNG LÂM TIÊN TRƯỞNG.
HÒA NGUYÊN VẬN
Tòng bá thanh thanh đẹp sắc màu,
Chuyển luân nhựt nguyệt bóng hoàng thâu;
Dòng đời ít kẻ toan đi ngược,
Hưởng thú tiêu dao chốn động Đào.
            CÁI THIÊN CỔ PHẬT.
HÒA NGUYÊN VẬN
Tử phủ Tiên cung chẳng nhạt màu,
Cuộc cờ thạch thất dễ chi thâu;
Hỏi ai có biết chàng Trương Tử ?
Rủ áo công khanh đến động Đào.
            HUỲNH THẠCH CÔNG.
HÒA NGUYÊN VẬN
Tiên Thiên ai muốn vẽ nên màu,
Danh lợi hồng trần chớ tóm thâu;
Chánh đạo không gìn e phải đọa,
Đọa sa vì bởi hố mình đào.
            LIỄU NHỨT CHƠN NHƠN.
HÒA NGUYÊN VẬN
Sắc nước trùng dương vẽ một màu,
Vạn Thần hải đảo tóm tay thâu;
Thuyền từ chực rước người tu niệm,
Hưởng thú thiên nhiên chốn động Đào.
            HẢI TRIỀU THÁNH NHƠN.
HÒA NGUYÊN VẬN
Chín từng mây bạc ánh muôn màu,
Vạn kiếp tu trì mới đặng thâu;
Nặng túi lợi danh đừng lấp lửng,
Không tu chớ mộng đến vườn Đào.
            PHẠM CÔNG TẮC.
HÒA NGUYÊN VẬN
Ngàn năm một thuở trổ hoa màu,
Đất Việt Cao Đài rộng mở thâu;
Khuyên chớ bôn ba tranh giả cuộc,
Quày chưn kẻo trễ hội Bàn Đào.
            NGUYỄN NGỌC TƯƠNG.
HÒA NGUYÊN VẬN
Chiếc áo Thiên phong chửa bạc màu,
Con đường sứ mạng dễ chi thâu;
Hỡi ai, ai đó, ai tri kỷ,
Quảy gánh đồ thơ đến động Đào.
            NGUYỄN BỬU TÀI.
ĐỒNG VIẾT
Cao Đài Hội Thánh Hội Quần Tiên,
Chứng chiếu trần gian lễ kỉnh thiền;
Giá hạc trập trùng nâng rượu cúc,
Tường vân phấp phới nhắm trà sen.
Ngâm câu chánh đạo soi đường sáng,
Mở lối chơn tu dắt bạn hiền;
Ban bố hồng ân cho tất cả,
Giã từ đệ muội lại Cung Thiên.
            TIẾP ĐIỂN
            NGÔ MINH CHIÊU - Chư hiền muội hiền đệ và các đệ tử hãy đọc bài đưa Tiên... Tiên Huynh miễn lễ chư hiền đệ hiền muội, và Thầy cho phép các hàng đệ tử an tọa đẳng đẳng.
            Chư hiền đệ hiền muội ! Sở dĩ cách xưng hô có khác nhau là Tiên Huynh hay Thầy, đó là do nơi lòng người nơi thế gian, và cũng để thể hiện lòng ưu ái thâm tình với nhau. Thật ra, trước ĐẤNG CHÍ TÔN, chúng ta tất cả là anh em. Mỗi người đều có một sứ mạng chung, đó là: tu thân hành đạo, làm sáng danh đạo, đem đạo độ đời từ chỗ tội lỗi hung ác trở lại đường thuần lương thiện mỹ, để có thể biến cảnh thế gian nầy trở thành cõi Thiên Đường Cực Lạc, lập lại đời Thương Nguơn Thánh Đức. Chừng đó, giữa con người và con người đều lấy tình thương yêu ruột rà đối xử với nhau trong tình tương thân tương trợ.
            Ngày nay, chư hiền đệ hiền muội đã vì Thầy vì Đạo, vì nhơn sanh, vượt sóng đến đây, cũng như Tiên Huynh đã vì sứ mạng năm xưa còn đeo đẳng, nên đến ngày nay, thay vì an hưởng lạc thú thanh nhàn, rượu cúc trà sen nơi Non Bồng Nước Nhược, ngày tháng tiêu dao nơi Bồng Đảo, lại phải vì sứ mạng đó còn vương vấn, với nhiệm vụ là đem đạo độ đời, trùng hưng chánh pháp để kịp ngày Long Hoa Đại Hội.
            Chư hiền đệ hiền muội ! Bốn mươi hai năm khai đạo và giáo đạo vừa qua, chính Đức CHÍ TÔN đã bổn thân xuống trần, cũng như các hàng Phật Tiên Thần Thánh đều giáng bút, phát ban nhiều kinh điển, nhiều giáo lý; chư hiền đệ hiền muội và các hàng đệ tử đã đọc qua nhiều lắm rồi. Giờ đây chỉ còn có một điều là thực hành chơn pháp, rèn luyện chánh tâm, giữ gìn chánh tín, để tu chánh đạo, hầu tự cứu trong cơ sàng sảy đào thải của định luật.
            Tiên Huynh rất buồn và tiếc cho các hàng hậu học ngày xưa không lãnh hội được đạo lý uyên thâm và trọng tâm khai đạo của các Đấng Giáo Chủ. Do đó đã quan niệm đạo lý trong phạm vi chật hẹp, cách ngỏ ngăn tường, đã đóng khung đạo lý trong phạm vi độc tôn, độc đoán, đã gây bao lần thất kỳ truyền.
            Rất đỗi đến ngày nay, cũng còn có nhiều cấp lãnh đạo đã quan niệm đạo lý dường ấy, tưởng rằng đạo lý là của riêng một người hay một nhóm. Do đó đã bày ra bao nhiêu hình thức độc tôn. Đó là một tệ hại rất lớn cho cấp lãnh đạo, giáo đạo.
            Thử nghĩ lại mà xem, đạo lý đối với vạn vật như ánh sáng bủa khắp muôn loài, không vì sang hèn giàu nghèo lớn bé, từ nhân loại đến thú cầm thảo mộc bò bay máy cựa, mỗi mỗi đều gội nhuần ánh sáng trong luật hóa sanh, trưởng dưỡng và bảo tồn. Chỉ phi trừ loài nào muốn trốn không thụ hưởng ánh sáng thì thôi, còn loài nào muốn, đương nhiên được ban bố đồng đều. Đạo lý cũng dường ấy.
            Chính người đời đã quan niệm sai lầm nên mới nẩy sanh độc tôn. Hễ độc tôn lại nẩy sanh mê tín, rồi đem cái mê tín ấy ban rải cho lớp người mê tín khác. Tiên Huynh cần nhắc lại chư hiền đệ hiền muội về điểm chánh tâm chánh tín mới gặp được chánh lý, chánh đạo hầu thoát khỏi luân hồi. Trên cõi Thiên Đình không có một vị Phật Tiên Thần Thánh nào mà thiếu nhân nghĩa, không trung hiếu, mất liêm sỉ.
THI
Chánh đạo thành do bởi chánh tâm,
Chánh tâm chánh tín khỏi sai lầm;
Lầm theo dục vọng rồi chia rẽ,
Chia rẽ sau nầy hối vạn năm.
THI BÀI
Năm Đinh Mùi tháng ba, mười bốn,
Hội đạo đồng giữa chốn Dương Đông;
            Nhứt tâm hoài niệm bóng hồng,
Sáng soi vũ trụ trong vòng tang thương.
Trên mặt biển buồm trương thấp thoáng,
Giữa lưng Trời cánh nhạn tung bay;
            Ôi ! non sông đẹp đẽ thay,
Tranh kia ai họa, cảnh nầy ai tô.
Dựa ven gành nhấp nhô cần hạc,
Cuối triền non thảnh thót giọt châu;
            Phải chăng Khương Tử ngồi câu ?
Hay là Sào Phủ đuổi trâu trên dòng ?
Nhịp vó ký Tái Ông đắc thất,
Tiếng chày kình nhà Phật thu không;
            Trăm năm gẫm khéo bận lòng,
Rủi may âu cũng sắc không đó là.
Lửa phiền cháy Ma Ha rưới tắt,
Nước triều dưng thuyền bát sẵn chờ;
            Tiên Ông có bộ Thiên thơ,
Ai người sứ mạng huyền cơ mở màn.
Học phải hiểu hành tàng hư thiệt,
Hành cần tri bí quyết nhiệm mầu;
            Con đường đạo lý cao sâu,
Cứu nhơn cứu vật trong bầu trần gian.
Tài Nghiêu Thuấn trị an thiên hạ,
Đức Trọng Ni chứng quả Thánh nhơn;
            Là do nhứt quán lý chơn,
Lập đời trị nước giáo dân thái bình.
Nào phải cậy phù linh phép lạ,
Có màng chi hoán võ hô phong;
            Văn Vương cầm tội vẽ vòng,
Phải chăng lý đạo ở trong lòng người.
Đồng linh tánh đất Trời ban phú,
Cũng hình hài phụ mẫu sở sanh;
            Người xưa có khác chi mình,
Phật Tiên Thần Thánh trong hình phàm phu.
Muốn đắc quả cần tu chánh đạo,
Muốn độ đời hoài bão chánh tâm;
            Xét xem cơ chỉ chớ lầm,
Làm người cho vẹn mới tầm vị ngôi.
Đại Linh Quang giống Trời gieo xuống,
Tiểu linh quang kiết chưởng hóa sanh;
            Càn khôn tóm một thân hình,
Chuyển luân thuận nghịch vận hành tương tri.
Hằng nói đạo vô vi vô tướng,
Lại vô hình vô tượng vô danh;
            Hữu vô lý đạo suy rành,
Mới mong thấu triệt máy linh nhiệm mầu.
Cơ sinh dục quát bao Trời đất,
Ở đất Trời phân đặt tượng hình;
            Chở che khắp cả vạn linh,
Ấy là hình đạo dưỡng sinh muôn loài.
Bóng nhựt nguyệt vần xây ngày tháng,
Tiếng sấm vang mưa thuận gió hòa;
            Một hàn một thử lại qua,
Đó thiệt tình đạo chan hòa nhơn gian.
Nam, chỗ đặt ngôi càn dương vị,
Nữ, gọi là khôn, lý âm dương;
            Cảm giao biến hóa khôn lường,
Phải chăng danh đạo biểu dương cơ mầu.
Luận vô hữu cao sâu huyền bí,
Tìm hữu vô yếu lý thậm thâm;
            Chủ nhơn ông thử kiếm tầm,
Cho thông chỗ hữu, khỏi lầm chỗ vô.
Đuốc chơn lý viễn đồ soi sáng,
Ngọn tâm đăng chói rạng bổn nguyên;
            Thiên Đình có Phật Thánh Tiên,
Đều do hạt giống nhơn duyên cõi trần.
Linh hồn mượn xác thân ẩn trú,
Xác thân cần phụ mẫu dưỡng nuôi;
            Thâm ân ví tợ đất Trời,
Ngọn rau tấc đất trên đời nặng mang.
Đó là hữu trong toàn vũ trụ,
Còn lý vô là thú tuần huờn;
Khuyên người học hiểu căn duơng,
Thực hành lý đạo lập trường tu thân.
Lý đạo vốn muôn phần sáng tỏ,
Bạch Ngọc Kinh một ngỏ đi về;
            Độ đời nhờ đạo giác mê,
Đạo không tư kỷ, không vì cá nhân.
Lập Hội Thánh tinh thần cao cả,
Dựng nền nhân công quả dạn dày;
            Việt Nam lịch sử hậu lai,
Công phu lớn nhỏ trong ngoài đạo tâm.
Bảng Cao Đài nghìn năm rạng rỡ,
Cõi Dương Đông muôn thuở thái bình;
            Ban ơn cậy có huyền linh,
Cho toàn dân chúng trong tình thương yêu.
Giữa canh thâu tỏ nhiều tâm sự,
Chúc chư hiền một chữ thành công;
            Chư đệ tử hưởng ân hồng,
Nhớ lời Thầy dặn hợp đồng lo tu.
            Chư hiền đệ hiền muội ! Cuộc lễ, sau phần chư Tiên chứng chiếu, kể như đã hoàn tất viên mãn. Tiên Huynh nghĩ vì cuộc hội ngộ hôm nay, tuy giữa kẻ Tiên người tục, nhưng đã đánh dấu quí báu vô cùng. Để kỷ niệm một ngày đoàn viên, nên Tiên Huynh đã luận đàm có nhiều khía cạnh, để chư hiền muội hiền đệ cũng như đệ tử ghi lấy, suy nghiệm, làm tài liệu học tập trên bước đường tu thân hành đạo. Trước sự xả thân giúp đời của chư đệ muội, Thiêng Liêng đều theo dõi hộ trì, bên cạnh đã có Tiên Huynh cùng các hàng Tiền Bối quá vãng dắt dìu.
            BÙI HÀ THANH - Cười ... Hiền đệ tử còn nhớ bao kỷ niệm đạo lý uyên thâm trong những ngày nào năm xưa. Thầy khá khen đệ tử đã tiến triển rất nhiều về môn đạo học. Tuy năm xưa Thầy truyền chưa được viên mãn là mấy, nhưng đệ tử chịu khó dày công suy nghiệm, tìm hiểu trong chỗ bí quyết nhiệm mầu, đáng làm một đệ tử gương mẫu của Thầy để dìu dẫn các hàng môn đệ. Đệ tử hãy vui vẻ hãnh diện mà đi cho cuối đoạn đường.
            TRẦN VĂN TRI - Thầy cảm thông nỗi khó khăn của đệ tử sau ngày chích cánh gia đình, nhưng đệ tử đã cố vượt qua một thử thách, cần cố gắng thêm lên để xứng đáng trò Tiên Thánh Phật.
            NGUYỄN VĂN TRUYỆN, HUỲNH THÀNH TỰU - Thầy lấy làm hài lòng trước cử chỉ và chí tâm chí thành làm sáng sử đạo của nhị đệ tử, và Thầy cũng khen sự suy nghĩ mở rộng đường lối hành đạo như hôm nay, là buổi lễ mở đầu cho sáng kiến đó. Thầy nói ít, nhị đệ tử sẽ thấy tốt đẹp ở tương lai. Miễn lễ, an tọa.
            Các đệ tử nên nhớ, sau khi xả đàn, hãy đem tất cả lễ vật trên bàn yến tiệc xuống, cắt chia đồng đều cho toàn thể hiền đệ hiền muội đồng thọ hưởng. Nhớ đừng nhớ đừng quên và bỏ sót những người có công lao khó nhọc xa gần đối với Cao Đài Hội Thánh. Nếu của lễ vật ít, hãy xắt thật nhỏ, hòa chung với khối nước lớn đem chia cùng thọ ẩm đồng đều. Đó là phần thưởng ân huệ của Thầy cũng như chư Tiên Phật khi nẩy còn lưu ý lại.
            Những lời Tiên Huynh dạy vừa qua, có nhiều khúc chiết, nhiều khía cạnh, cần được phổ biến cho tất cả mọi người xa gần đối với Cao Đài Hội Thánh cùng hiểu mà tìm lý đạo. Rồi sang đến giờ Tý kế đây, CHÍ TÔN sẽ lâm đàn ban ân huệ cho các phái đoàn về tham dự cuộc lễ. Để giữ được nề nếp cũ đã có, Thầy sẽ giáng đàn truyền pháp cho các hàng đệ tử Chiếu Minh Tam Thanh, còn chư đệ muội khác được phép an nghỉ hoặc dự thính bên ngoài.
            Bộ phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý - Thể theo sự đề nghị của GIÁO TÔNG THÁI BẠCH và được sự chấp thuận của ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN, một đàn cơ sẽ được thiết lập tại Thiên Lý Đàn vào giờ Tuất ngày 23 tới đây. Thành phần hầu đàn: Bộ phận Hiệp Thiên Đài, Ban Thường Vụ và 3 Vụ Trưởng. Bộ phận khá y hành.
THI:
Canh khuya lời dạy cũng vừa xong,
Chứng chiếu đàn trung đã trọn lòng;
Từ giã ban ơn chung tất cả,
Tiên Huynh trở gót lại non bồng. (thăng)
&
CAO ĐÀI HỘI THÁNH (Dương Đông Phú Quốc)
Tý thời 15 rạng 16 tháng 3 năm Đinh Mùi (24.4.1967)
Lễ kỷ niệm ĐỨC NGÔI HAI GIÁO CHỦ NGÔ ĐẠI TIÊN
THI
NGỌC báu khen con biết giũa mài,
HOÀNG đồ sẽ rạng khắp đông tây;
THƯỢNG thừa trung hạ chung tô điểm,
ĐẾ đạo mới mong cứu vạn loài.
            Thầy linh hồn các con nam nữ. Thầy mừng các con. Thầy vui mừng nhận thấy lòng hiếu đạo của các con nam cũng như nữ, lớn cũng như nhỏ, đứa dại cũng như đứa khôn, đứa tiến bộ nơi chốn thị thành cũng như đứa quê mùa chất phác nơi miền thôn quê núi non cùng biển cả, đều nhớ nơi di tích của lịch sử Đạo Cao Đài, đã bôn ba vượt biển tung mây đến dự buổi lễ, đã gây được bao nhiêu tình hòa ái, cởi mở bao nhiêu tâm tư mặc cảm, để nhìn Đấng Trọn Lành là Cha chung muôn vật. Thầy lấy làm vui mà ghi nhận và an ủi vỗ về những lo âu vì sợ thất lễ với Thầy. Thầy miễn lễ, các con đồng an tọa.
            Các con ôi ! Mọi biến chuyển nơi thế gian hằng ngày trước mắt các con, đó là định luật, máy Tạo tuần huờn. Thầy và các Phật Tiên Thần Thánh đã từng cho các con biết trước từ trên bốn mươi năm qua rằng: Hoàn cầu vũ trụ sẽ đến như những biến chuyển ngày nay và còn thảm khốc càng ngày càng hơn thế nữa, nên đã hối thúc dặn dò kêu gọi các con phải rán lo tu và tu trong chánh đạo, chánh tín, chánh tâm.
            Có những con đã trọn tin lời Thầy,
            có những con tin được phân nửa,
            có những con phân vân lưỡng lự đôi phần.
            Còn tội nghiệp thay những con chưa được mảy may tin tưởng; Thầy sợ e rằng đến ngày đào thải cặn bã, không làm sao cứu vớt chúng nó được. Dầu Thầy thương chúng bao nhiêu, càng lại đau lòng nhìn chúng bấy nhiêu, vì chúng không tu, không lập công bồi đức, mà cũng chẳng có tin tưởng trên đầu còn có ai nữa.
            Giờ hôm nay, Thầy đến đây để ban hồng ân cho toàn thể các con từ khắp bốn phương đã đặt chơn đến mảnh đất Dương Đông nầy, cũng như các con tại địa phương đã kẻ có công, đứa có của, chung nhau hỉ hạ trong những ngày lễ vừa qua, và Thầy cũng cho chư Thần hộ trì các con, khi đi cũng như lúc về, được an toàn.
            Sau đây, Thầy cũng ban bố các con vài lời để các con lưu ý mà tu thân hành đạo.
            Hỡi các con ! Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hiện thời, dầu dưới hình thức chi phái địa phương nào cũng vậy, ví như đám cây rừng. Trên tấm thảm xanh có muôn ngàn thảo mộc hoa quả.
            Có cây thì tàng cao bóng mát, sum sê rườm rà cao vút,
            có cây thì lưng lửng cỗi cằn,
            có cây thì là đà vừa cao hơn mặt đất.
            Có cây ăn trái được, có cây dùng làm dược thảo, có cây dùng vào việc xây cất.
            Cũng có những cây cỏ dại, nhưng trong đại toàn thể của khu rừng, từ xa nhìn vào là một cảnh thiên nhiên xinh đẹp.
            Nếu trong khi đó có những tay thợ rừng ruồng bỏ những cây con, cây thấp cùng cỏ dại, chỉ còn lại những cây to bóng mát, thì không thể gọi là rừng được.
Nói một cách khác : Đạo Thầy là thang thuốc trị bịnh trầm kha cho nhân loại. Trong thang thuốc có vị đắng, vị cay, vị chua, vị ngọt. Tuy tánh dược không giống nhau, nhưng đại toàn thể thang thuốc đó có sự hợp đồng của mỗi bản năng dược tánh, trị được chứng bịnh cho người cũng như loài vật. Trong lúc đó, nếu dầu một lương y đại tài, rứt ra một vị nào cho rằng hay, cũng vô dụng cho bịnh nhơn.
            Xuyên qua hai thí dụ trên, các con thử xem xét lại hiện tình Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà dung hòa canh tân đường lối hành đạo. Thầy mong rằng ngày kia, một nhơn vật nào viết sử Đạo Cao Đài, chỉ viết một quyển mà thôi. Nếu những con nào muốn viết sử đạo hãy liệu mà viết, làm thế nào độc giả tự bốn phương trời, đọc đến sử đạo khỏi phải hoài nghi, phân vân và điên óc.
            Lời Thầy nói ít, các con suy gẫm mà hiểu thêm nhiều.
Sau đây, Thầy cũng muốn trần tình dặn dò thêm các con đang tu luyện về Chiếu Minh Tam Thanh. Dầu không ai nói, các con cũng biết rằng mỗi một chơn linh hạ phàm, khi muốn trở về với Thầy, đều cũng phải đi qua con thuyền bát nhã mà các con đang chọn cây ghép ván. Ngày xưa, Thầy đã giao bí pháp chơn truyền và trách nhiệm cho CHIÊU để dìu dẫn các con nào
            có hoàn cảnh, có phương tiện, có thì giờ, có cơ duyên,
            thì sớm lo tu luyện để chờ ngày công đầy quả đủ trở về hiệp nhứt cùng Thầy.
            Trong khi đó, ngoài CHIÊU ra, còn có những con khác cũng lãnh sứ mạng trực tiếp của Thầy,
            đem phương pháp ngoại giáo công truyền để tỉnh ngộ và dìu dẫn các con khác còn nặng nghiệp duyên hồng trần đeo đẳng.
            Sứ mạng của các con trong lớp sau nầy là khai sơn phá thạch, dọn rừng, cày đất, lượm cỏ trên mảnh ruộng, để cho các con có trách nhiệm về nội giáo tâm truyền đem hột giống quí đến mảnh đất cày sẵn đó mà gieo giống.
Dầu nội giáo, dầu ngoại giáo, mỗi người mỗi việc, trách vụ và công đức như nhau. Nếu một trong hai mà thiếu thì danh từ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tam Giáo qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt không còn ý nghĩa gì nữa.
            Các con hãy trọng tâm ý thức lời Thầy hôm nay mà hành đạo, rồi các con sẽ thấy nơi nầy trong tương lai sẽ còn có những gì tốt đẹp và vinh diệu khác nữa, nữa kìa.
            Thiện Đức Nguyễn Văn Các - Thầy chứng lòng thành của con, và ban ơn cho con cũng đồng đều như những con khác. Con hãy yên lòng trở về Trúc Lâm Thiền Điện mà lo tiếp tục đạo nghiệp. Tam Giáo Tòa sẽ ban ân cho con trong vòng tháng tư tới. Con an tọa.
THI
Canh khuya thỏ thẻ dặn con hiền,
Đạo lý một nguồn chớ chẳng riêng;
Hiệp sức chung tâm hành chánh đạo,
Sao cho xứng đáng học trò Tiên.
NGÂM
Tiên phàm nào phải cách xa,
Thánh phàm đâu có khác là bao lăm;
Cách vì do bởi chữ tâm,
Chữ tâm hiểu đặng Tiên phàm một bên.
Tiếng đời tuy khác tuổi tên,
Việc làm tuy có tư riêng sắc màu;
Mỗi phần đều có thanh cao,
Mỗi người mỗi việc cùng nhau rán làm;
Dầu Tiên Phật Thánh hay phàm,
Một đường lối ấy sẽ tầm gặp nhau.
Đêm khuya lời tỏ âm hao,
Dặn con ghi nhớ cùng nhau học hành;
Ban ơn con trẻ an lành,
Thế gian tu niệm, Thiên Đình Thầy thăng.
&

1.16 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ MINH CHƠN ĐẠO

NGỌC ÂM THÁNH TRUYỀN       QUYỂN 2, tr.72-73
Đàn giờ Ngọ, ngày 23.5 nhuần năm Nhâm Thìn (1952)
THI :
NGÔ đồng rụng lá cuối mùa đông,
ĐẠI Đạo hoằng khai buổi đại đồng;
TIÊN vị đắc thành lúc tại thế,
GIÁNG đàn chỉ dạy một vài dòng.
BÀI :
Một vài dòng ta nay chỉ dạy,
Cho chúng sanh ngó thấy Đạo chơn;
Tây Ninh, Ông Cấm, Tà Lơn,
Thảy đều qui phục Minh Chơn sau này.
Vì thấy trước nên Ta giáng điển,
Dạy chúng sanh hướng thiện cho mau;
Kẻo sau phải lọt xuống ao,
Không mong cứu được dàu dàu hồn linh.
Đạo khi mở Chiếu Minh Ta chủ,
Tông phái này tu thủ kỳ thân;
Có câu độ được toàn dân,
Nên Ta giáng dạy phải cần khuyến tu.
Vì hạ ngươn lu bù tai nạn,
Ta tu xem bậu bạn hiểm nghèo;
Thành ta ở cảnh cheo leo,
Ngó xem bậu bạn hiểm nghèo lâm nguy.
Vì bác ái từ bi độ chúng,
Khuyên chư hiền nghe phủng lời Ta;
Kẻo sau hối tiếc thành ma,
Vì chưng công quả có đà đủ đâu.
Ta thương xót đôi câu vắn tắt,
Dạy chư hiền tu đắc quả công;
Phải thương những kẻ long đong,
Khuyên tu cho chóng hầu mong trở về.
Khuyên sanh chúng dựa kề Đại Đạo,
Kẻo ngày sau không gạo mà ăn,
Rồi đây phải chịu nhăn răng,
Khó mong tưởng đến tầm phăng cội nguồn.
Bởi sau đây nhiều luồng ác khí,
Bao phủ cùng không thấy đường đi;
Kẻ chơn tu được thoát nguy,
Nhưng ta thương hại còn gì nguyên nhân.
Khuyên chư hiền rán cầu dẫn dắt,
Các nguyên nhân vướng mắc hồng trần;
Cho họ khỏi bị thiệt thân,
Như vầy mới đúng tu chơn đó mà.
Vậy khuyên thế rán mà tỉnh thức,
Ai khuyến tu rán thức tánh đi;
Kẻo sau hối tiếc sầu bi,
Trong cơn cùng tận lâm nguy mắc nàn.
Tới đầy Ta phải tách đàn,
Trở về Bồng đảo Thiên đàng Ta lên. Thăng./.
o

1.17 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ

MINH KHAI HẢI NGOẠI

Ngọ thời 01.04.Kỷ Mão (15.05.1999)
THI :
CAO ban pháp đạo độ con hiền,
ĐÀI cảm giúp con đắc Phật Tiên;
TIÊN Phật xưa đều tu tánh mạng,
ÔNG dìu dắt trẻ lại Tây Thiên.
            CAO ĐÀI TIÊN ÔNG, NGÔ TIÊN ÔNG. Thầy mừng các con, Thầy miễn lễ. Các con nghe :
            ĐẠO Thầy là đạo tâm. Các con dùng pháp Thầy truyền, hành cho đúng. Năng dò Kinh Cảm Ứng, sửa chửa phàm tánh của mình. Bền chí, quyết tâm trọn tin Thầy, thì phải có ngày đắc nhứt.
BÀI :
Chuyển linh cơ, linh cơ nhắc trẻ,
Giữ phép mầu lặng lẽ y hành;
Soi gương Kinh Cảm sửa mình,
Pháp Kinh thuần thục đơn thành chẳng sai.
Dấu đường mòn miệt mài con bước,
Trọn tin Thầy con vượt chông gai,
Tu say phanh luyện đêm ngày,
Bền lòng trì chí học bài Phật Tiên.
Căn duyên xưa con hiền được đạo,
Một kiếp này để tháo ngục tù;
Tâm trung minh mẩn chẳng lu,
Là con đắc nhứt Thanh U con về.
SỬ tâm nguyện chẳng xê rời đạo,
Mấy mươi năm luyện tạo vóc hình;
Khuôn hình Phật tử đã in,
Chữ nhàn con thấu Thầy minh con tường.
Nhìn bạn trẻ bước đường mòn đó,
Nguyện Phật Tiên ban chỗ quây quần,
Cùng bạn trể gội hồng ân,
Ngôi đàn khởi sắc lần lần sum suê.
KHÂM một dạ nguyện thề vì đạo,
Trọn tấc lòng để tạo kỳ công;
Đường đi đèo ải chập chùng,
Tâm càng thanh tịnh càng tùng nhân duyên.
HƯƠNG huyền ảo của miền đất Phật,
Thưởng thức rồi mong đạt vị ngôi;
Hầm chông nay đã lấp rồi,
Dầu mình một bóng thang Trời con lên.
Vườn ĐÀO xưa còn NGUYÊN cảnh cũ,
Vẫn chờ con gom tu linh đan,
Về Thầy chỉ có một đàng,
Đạo đời trọn vẹn băng ngàn chầu Cha.
VĂN chữ tốt bày ra ngưỡng chợ,
Phải có người dòm dỏ thị phi,
Chẳng bằng im ẩn tu trì,
Mười Khuyên hành tập, đường đi sáng dần.
Còn TRẺ muốn quày chân rẽ ngã,
Giữ nhứt tâm một dạ tưởng Thầy;
Trước sau cũng bước đường mây,
Song tu tánh mạng về Thầy gặp Cha.
Bồ đào ban chứa chan linh điển,
Các con vui nhứt nguyện lo tu. Thăng ./.
o

1.18 ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN giáng cơ

CAO THƯỢNG BỬU TÒA

BẠC LIÊU, Tý Thời 24.Giêng.Nhâm Tý (09-03-1972)[7]
THI
NGÔ đồng nội pháp hiệp công truyền,
MINH diệu Cao Đài một chủ quyền;
CHIÊU tập nguyên nhân đua Phổ Độ,
Mười hai Chi Phái luật khai thiên. THĂNG./.
o

1.19 ĐỨC NGÔ MINH CHIÊU, PHÁP BỬU ĐẠI TIÊN giáng cơ HỘI THÁNH TIÊN THIÊN,

THÁNH HUẤN HIỆP TUYỂN, quyển 1 tr.225,1961.
THI :
NGÔ thân tâm tĩnh mỗi ngày tu,
MINH mẫn tâm linh thể nguyệt Thu;
CHIÊU mộ chất âm bồi quả vị,
PHÁP luân thường chuyển mãi công phu;
BỬU tam đầy đủ nhờ tịnh luyện,
ĐẠI Đạo kết thành bởi hiểu thâu;
TIÊN cảnh phục hồi qui vị cũ,
GIÁNG cơ để chút sĩ hiền nhu.
&


[1] Tam Giáo Điện Minh Tân 221 Bến Vân Đồn, Quận 4 Th.P Hồ Chí Minh (2010)
[2] Đức Ngô Minh Chiêu qui Thiên ngày 13.3.Nhâm Thân (18.4.1932).
[3] Ngọc Sắc, còn gọi Thánh Sắc, xưa gọi là Đơn Thơ.
[4] Phái Chiếu Minh, " LỊCH SỬ QUAN PHỦ NGÔ VĂN CHIÊU", in lần thứ tư, tr.57 - 63, 1956.
[5] Ngọc Minh Đài 18 Nguyễn Khoái Quận 4, Saigon. (1966)
[6] Thánh giáo Chiếu Minh Ẩn Giáo tr. 56 – 59, bản vi tính năm 2000.
[7] Xem nguyên bài dạy trong phần Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Copyright by THÁNH SẮC CHỨNG ĐẠO CAO ĐÀI © 2012