ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG (CAO THOẠI KIẾT)


ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG
(CAO THOẠI KIẾT)

&
2.1 ĐỨC CỬU NƯƠNG[1] giáng cơ MINH CHƠN ĐẠO
2.2 ĐỨC CỬU NƯƠNG giáng cơ THÁNH TỊNH THIÊN TRƯỚC (CẦN THƠ).

2.3 ĐỨC CỬU NƯƠNG ban KINH ĐỆ CỬU CỬU (Giọng Nam-Xuân)
2.4 SƠ LƯỢC TIỂU SỬ ĐỨC CỬU NƯƠNG CAO THỊ KIẾT (CAO THOẠI KIẾT)
2.5 CÁC ĐẤNG CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG giáng cơ HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO.

2.6 ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG giáng cơ HỘI THÁNH TIÊN THIÊN.
2.7 ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG giáng cơ
2.8 ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG giáng cơ VẠN QUỐC TỰ (CHƠN LÝ ĐÀN).
2.9 ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG giáng cơ THÁNH THẤT BÌNH HÒA.
2.10 MỘ CÔ CHÍN
2.11 ĐỨC CỬU NƯƠNG GIÁNG CƠ HỘI THÁNH BẠCH Y LIÊN ĐOÀN CHƠN LÝ
 (RẠCH GIÁ)

&

2.1 ĐỨC CỬU NƯƠNG giáng cơ MINH CHƠN ĐẠO

HUYỀN DIỆU ĐÀN, Tý thời 07.02 Nhâm Thìn (1952)[2]
THI :
EM cầm nhành liễu MẸ TÂY CUNG,
CỬU nhựt tới đây rảy khắp cùng;
NƯƠNG bóng từ bi mà độ thế,
TIÊN CÔ báo hiệu cho anh mừng.
BÀI :
Mừng anh phận sự lo kham,
Nói cho anh biết kiều lam đợi chờ.
Việc đời chớ mộng chớ mơ,
Trò Tiên phải viết những thơ Thiên đình.
Để sau thi hội phải trình,
Những văn bóng bẫy Thiên đình đã ban.
Khuyên anh chớ khá dứt ngang,
Điển linh các Đấng xuống than với đời.
Rồi sau anh phải chơi vơi,
Không thuận lịnh Trời, hình phạt phải mang.
Chừng đó anh có than van,
Thần Tiên đâu có giúp ban phép mầu.
Hôm nay em tả ít câu,
Cho anh rõ thấu hoàn cầu lung linh.
Mẹ xem Mẹ thấy hải kinh,
Sai em đi rưới phép linh một bầu.
Cho tắt chiến lửa hoàn cầu,
Được cho sanh chúng bớt sầu bớt than.
Chỗ nào hoạ còn gây mang,
Ách tai chưa dứt Thiên Hoàng định phân.
Nói cho sanh chúng tĩnh lần,
Làm lành tránh dữ, Thầy gần giảm tha.
Cho hồn xác khỏi tiêu ra,
Tro bụi một nắm nhờ ta cứu giùm.
Thôi thôi em phải hồi cung,
Để mà phục lịnh Tây Cung Mẹ truyền. Thăng./.
o

2.2 ĐỨC CỬU NƯƠNG giáng cơ
THÁNH TỊNH THIÊN TRƯỚC (CẦN THƠ)

Ngọ thời, 15-5 Quí Sửu (15/6/1973).
THI
CỬU kiếp thường du đáo Thượng tiên,
NƯƠNG nhàn hôi diện sắc Hoàng Thiên,
DIÊU Đài tiếng gọi ơn Từ Mẫu;
TRÌ niệm đức sâu quyết vẹn tuyền.
CUNG ngọc soi gương người chí sĩ,
GIÁNG trần ân nhiệm đến thâm uyên .
THIÊN Tòa rỡ rỡ từ quang điễn,
TRƯỚC lập bình minh sáng rạng truyền.
CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG! Chào mừng chung các em nam nữ! Tình thương còn đó, niềm cảm là đây! Mừng vui ngày hội ngộ, Chị khuyên đoàn em còn mê sa vòng tục lụy phải cố công lo cho tròn một kiếp đời, trả dứt nghiệp căn thì sau nầy tình tỷ muội đẹp lời tao ngộ!
            Vậy giờ lành, Chị vâng thừa lịnh dạy của HOÀNG MẪU để giáng điễn báo đàn. Các em phải khá thành kỉnh tiếp cầu Phật Tổ Di Đà lâm phàm. Chị lui điễn! Hộ toàn cơ huệ! Triều nghinh! -THĂNG-
&

2.3 ĐỨC CỬU NƯƠNG ban KINH ĐỆ CỬU CỬU

(Giọng Nam-Xuân)


Vùng thoại-khí bát hồn vận chuyển ,
Tạo-Hóa-Thiên sanh biến vô cùng ;
Hội Bàn-Đào , Diêu-Trì-Cung,
Phục sinh đào hạnh , rượu hồng thưởng ban .
Cung Bắc-Đẩu xem căn quả số,
Học triều nghi vào ở Linh-Tiêu ;
Ngọc-Hư-Cung , sắc lịnh kêu ,
Thưởng phong trừng trị phân điều đọa thăng.
CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG
Nơi Kim-Bồn vàn vàn ngươn chất ,
Tạo hình hài các bậc nguyên nhân ;
Cung Trí-Giác, trụ tinh thần,
Hườn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên .
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Nam Mô Cao-Đài . . . (niệm 3 lần)
o

2.4 SƠ LƯỢC TIỂU SỬ ĐỨC CỬU NƯƠNG

CAO THỊ KIẾT (CAO THOẠI KIẾT)

Đạt Truyền& Đạt Linh
Tại Tòa Thánh Tây Ninh, linh vị và tượng Đức Phật Mẫu cùng Cửu Vị Tiên Nương được thờ tại Đền Thờ Phật Mẫu tạm đặt tại Báo Ân Từ.
Báo Ân Từ được xây cất trong năm Quý Dậu (1933) bằng cây lợp ngói. Nơi đây tạm thờ quả Càn Khôn trong khi tạo tác Đền Thánh. Khi Đền Thánh hoàn thành, Hội Thánh cầu cơ xin thờ Đức Phật Mẫu chung với Đức Chí Tôn nơi Đền Thánh. Đức Phật Mẫu giáng cơ dạy: “Chí Tôn là Chúa, Phật Mẫu là tôi. Tôi và Chúa không đồng ngự một nơi được”.
Ngày 08-01 Đinh Hợi (1947), Đức Hộ Pháp thiết lễ rước quả Càn Khôn về an vị tại Đền Thánh. Đức Hộ Pháp ra lệnh cho Lễ Viện Phước Thiện tạo ba long vị viết chữ Nho: “Diêu Trì Kim Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, Bạch Vân Động Chư Thánh” thờ tại Báo Ân Từ. Đúng giờ Ngọ ngày 09-01 Đinh Hợi (1947) thiết lễ cúng Đức Phật Mẫu lần đầu tiên.
Năm Nhâm Thìn (1952) Đền Thờ Phật Mẫu được xây dựng tại Báo Ân Từ bằng vật liệu kiên cố. Ngày 09-01 Ất Mùi (1955) làm lễ khánh thành trùng dịp lễ khánh thành Đền Thánh.
Hình thể bên ngoài Đền theo hình chữ Vương. Nơi chánh điện thờ Đức Phật Mẫu, trên bức vách ngăn giữa hậu điện và Báo Ân Từ, ngay gian giữa có đắp tượng Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương và bốn vị Tiên đồng nữ nhạc ngồi trên lưng chim Thanh Loan trong tư thế đáp xuống sân Hoa Điện. Tượng Đức Phật Mẫu mặc áo vàng, ngồi chính giữa. Cửu Nương mặc áo màu xanh, tay cầm ống tiêu, ngồi nơi phía mặt Đức Phật Mẫu kế Lục Nương. Ở Điện thờ Phật Mẫu tại các địa phương, linh vị và tượng Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương được thờ giống như ở Đền Thờ Phật Mẫu của Tòa Thánh Tây Ninh.
CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG
Cửu Nương có nhiệm vụ dẫn dắt các chơn hồn đến tầng trời Tạo Hóa Thiên để bái kiến Đức Phật Mẫu. Tạo Hóa Thiên do Đức Phật Mẫu chưởng quản là từng trời thứ chín, vị trí cao nhứt trong Cửu Trùng Thiên. Ở Tạo Hóa Thiên, Cửu Nương tiếp dẫn chơn hồn vào dự Yến Bàn Đào, hưởng tiên tửu, rồi đưa chơn hồn đến cung Bắc Đẩu xem căn quả và số kiếp của mỗi chơn hồn, xong lại đưa chơn linh vào Linh Tiêu Điện học lễ nghi phép tắc để chầu lạy Đức Chí Tôn, và chờ sắc lệnh Ngọc Hư Cung xét công tội, phán siêu thăng hoặc đọa đày.
Trong một kiếp giáng sanh xuống trần gần đây nhứt, Cửu Nương có tên là CAO THOẠI KIẾT (theo gia phả). Chữ KIẾT tức là giọng địa phương đọc chữ CÁT, nghĩa là tốt lành. Cô sanh ngày 16-01 Bính Thân (28-02-1896 theo lịch vạn niên và gia phả, nhưng trên mặt mộ ghi năm 1895, tại ấp Vĩnh Hinh, xã Vĩnh Lợi, tổng Thạnh Hưng, hạt Bạc Liêu (nay là thị xã Bạc Liêu). Cha cô là đốc phủ Cao Minh Thạnh (1860-1919), người Minh Hương gốc Triều Châu, mẹ là bà Tào Thị Xút.
Lớn lên, Cô Cao Thoại Kiết được gia đình gả cho ông Nguyễn Bá Tính, con thứ của đốc phủ Nguyễn Bá Phước. Khoảng hai năm sau cô Kiết thọ bệnh và mất ngày 27-5 Canh Thân (10-7-1920) lúc 24 tuổi.
Mộ của cô ở giữa đồng ruộng, sát rạch Ông Bổn (nay thuộc khóm 7, phường 5, thị xã Bạc Liêu). Các tín hữu Cao Đài sợ ngôi mộ bị sụp lở nên đã nhiều lần gia cố thêm, sửa chữa mặt mộ và lót gạch bên ngoài cho sạch sẽ. Dân chúng quanh vùng gọi là mộ Cô Tiên hay mộ Cô Chín.
Trong lần xuống trần nầy, Cửu Nương là con gái út trong gia đình có tám người con: Cao Triều Chấn (1878-1921); Cao Triều Chánh (1880-1955); Cao Triều Trực (1884-1968); Cao Triều Trung (1886-1956); Cao Triều Phát (1889-1956); Cao Triều Hưng (1891-1957); Cao Thoại Ý (1893-1990); Cao Thoại Kiết (1896-1920) (gọi theo phong tục miền Nam là cô Chín)
Tương truyeàn, Cô là hậu thân của công chúa Ngọc Vạn, con gái của Chúa Hy Tông. Từ thế kỷ 17, có nhiều người Việt Nam đến đất Chân Lạp (miền Biên Hòa, Bà Rịa ngày nay) để vỡ đất làm ruộng. Lúc ấy, vua Chân Lạp Chey Chetta II cũng muốn tìm một đối lực chống lại Xiêm La nên đã xin cưới công chúa con Chúa Hy Tông vào năm 1620, Do vậy công chúa Ngọc Vạn trở thành hoàng hậu nước Chân Lạp.
Bà đã đem nhiều người Việt Nam đến đất mới Oudong, có người được cất nhắc giữ chức hệ trọng trong triều. Năm 1628, Chey Chetta II mất, bà Ngọc Vạn thủ tiết thờ chồng. Năm 1658, vì ghét người con ghẻ là vua Nặc Ông Chân lấy vợ người Mã Lai, bà hoàng thái hậu Ngọc Vạn khuyên các con của cựu vương Préah Outey cầu cứu Chúa Nguyễn. Chúa Thái Tông sai tướng bắt được Nặc Ông Chân. Từ đó, lưu dân Việt đến Đồng Nai, Gia Định rất đông, lấn sang miền Hậu Giang. Họ làm ăn rất sung túc nên bị người Triều Châu ở Bạc Liêu thầm ghen ghét. Sau khi chết, bà hoá kiếp vào nhà họ Cao với cái tên Cao Thoại Kiết (1896) tại Thạnh Hưng, Bạc Liêu.
 Trong gia đình Cửu Nương Cao Thoại Kiết có ba người anh nhập môn theo đạo Cao Đài có những nét nổi bật là Cao Triều Trực, Cao Triều Phát và Cao Triều Hưng.
Ngài Cao Triều Trực có người con gái thứ ba là Cao Xuân Hương nhập môn theo đạo Cao Đài rất sớm, Thánh danh Diệu Lý cùng người phối ngẫu là ngài Tạ Đăng Khoa (Bảo Pháp Chơn Quân Hùynh Chơn) hành đạo ở Cơ Quan Phổ Thông Gíao Lý đến khi liễu đạo. Nhà riêng của nhị vị tại số 278 Lê Văn Duyệt, Hòa Hưng, nay là Cách Mạng Tháng Tám. Vào cuối thập niên 50 thế kỷ trước, nơi đây là Thiên Lý Mật Đàn rồi đổi tên là Thiên Lý Đàn trước khi thành lập CQPTGL. Ngài Huỳnh Chơn là Pháp Đàn và đạo tỷ Diệu Lý là một trong Tứ Bửu. Nơi Thiên Lý Đàn Ơn Trên đã giáng dạy các vị tiền bối CQPTGL nhiều bài quan trọng để chuẩn bị thành lập Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý nay là CQPTGLĐĐ.
&

2.5 CÁC ĐẤNG CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG giáng cơ
HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO

 


Linh Tháp, ngày 08-4-ĐĐ.31 (Bính Thân)
(17-5-1956)
                 TRẦN HƯNG ĐẠO Đại vương, chào chư Thiên phong, chư Chức sắc, chư Đạo hữu toàn Đàn.
THI
Muôn thuở hồng ân cứu vạn hồn,
Tam Kỳ đại xá tận Càn Khôn;
Trung Hưng Giáo hội khai cơ pháp,
Chuyển hóa năm châu cuộc bảo tồn.
                 Giờ nầy chư Thiên phong Chức sắc, chư Đạo tâm nam nữ, thành tâm đón tiếp Cửu Vị Thánh Nương và Tam Giáo, chư Quần Tiên lâm hạ. Đại tịnh nghiêm Đàn, nội ngoại chỉnh y cân, cầu nguyện. Bản Thánh xuất cơ.

TIẾP ĐIỂN
THI
DIÊU diêu cõi Thánh hưởng ân hồng,
TRÌ tụng kim quang tiếp điển hồng;
NHỨT nguyện xá thân cầu giải thoát,
NƯƠNG thuyền Bát Nhã đến tiên bồng.
                 Mừng chư Thiên sắc, chư Đạo tâm, mừng chư Thánh đồ chứng kỳ đại xá.
THI :
DIÊU điện chờ trông kể những ngày,
TRÌ tâm đón đợi đến hôm nay;
NHỊ kỳ công đức Tam kỳ gặp,
NƯƠNG pháp Thần Tiên đến bệ giai.
                 Chào chư Thiên sắc, chư Đạo tâm, mừng chư Tông đồ hồng ân tiếp thọ.
THI :
DIÊU cung MẸ mỏi đợi chờ con,
TRÌ chí mà tu đức hạnh tròn;
TAM nghiệp giải tiêu nhờ Đạo pháp,
NƯƠNG mây về thẳng đến bồng non.
                 Chào chư Thiên sắc, chư Đạo hữu Đạo tâm, mừng chư Thánh Tông đồ chứng vị
THI :
                        DIÊU đài ngày tháng đợi trông tin,
                        TRÌ chí từ lâu đạo giữ gìn;
                        TỨ giả thân lo tu giải thoát,
                        NƯƠNG cơ tận độ sớm toàn linh.
                 Chào chư Thiên sắc, chư Đạo tâm, mừng chư Chơn hồn tận cứu.
THI
                        DIÊU động ngồi tu độ chúng sanh,
                        TRÌ công xây dựng đạo hoàn thành;
                        NGŨ châu giáo lý qui Tông Pháp,
                        NƯƠNG lấy Tam Kỳ được hiển linh.
                 Chào chư Thiên sắc, chư Đạo tâm, mừng chư Vong linh thành đạo.
..........................................
THI :
                        DIÊU đàn ngồi luyện chế Tiên đơn,
                        TRÌ niệm tâm kinh biện giả chơn;
                        CỬU phẩm liên hoa mời thiện khách,
                        NƯƠNG theo Bửu cái lại Bồng sơn.
                 Chào chư Thiên ân, chư Đạo hữu, mừng chư Thánh chứng vị, chư Đạo tràng quá cố siêu thoát khổ hải A tỳ.
PHÚ :
Kỳ đại xá CHÍ TÔN ra lịnh,
Hội LONG HOA thành kỉnh được vào thi.
Đạo CAO ĐÀI qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi
Mở rộng Tam kỳ, hiện từ bi cứu năm châu trong hồi nước lửa.
Nước cam lồ ban trao cho người đời, bịnh tình lo cứu chữa.
Vết đau thương mau gội rửa, tai tật mạnh lành.
Cõi trần gian là kiếp phù sanh.
Miếng lợi danh là lò chém giết.
Người tỉnh giấc huỳnh lương, tránh cơ tự diệt. Lo hồi đầu tìm lẽ thiệt là đạo đức yêu thương.
Đừng say sưa nơi cõi thế mà sái bước, lạc đường.
Là muôn kiếp bị trong bốn tường sắc, tài, tửu, khí.
Ai tỉnh ngộ nghe lời khuyên mà lập chí.
Chung đạo nhà tránh hồi vận bĩ của cuộc đời cùng.
Đạo Cao Đài là mối đạo chung.
Không nhơn ngã, không đông tây, trung dung hòa vạn Giáo.
Một Thánh thể vầy đoàn trong ấm êm thuận thảo.
Tất cả nhắm chung mục đích gốc hoài bão cơ cuộc tương lai.
Kẻ có công qui khứ nhập Liên đài.
Trên chín phẩm thung dung hưởng hồng ân Tạo hóa.
Kẻ tội lỗi nhờ cháu con có công phu công quả.
Gặp Tam Kỳ đại xá mở rộng cửa Phong đô.
Rước chư Linh thoát ra khỏi nghiệp báo Tam đồ.
Pháp tận độ hư vô nhứt khắc đen tối hóa nên xán lạn.
Chư Thánh tử Đạo liễu Đạo được nương pháp
danh nêu cao Thánh bản.
Chín tầng mây ngày Phật Đản được Di Lặc độ siêu.
Mừng trong Giáo hội hai điều.
Hoàn thành Linh Tháp một điều thành công.
Trung Hưng kiến tạo đại đồng.
Mở đường giáo lý Tây Đông hòa bình.
                 Chư Hiền hôm nay được hồng ân của THẦY. Chư Tông đồ và Đạo hữu tử Đạo hoặc liễu Đạo được Thiên ân.
                 Giờ nầy Cửu Nương theo lịnh Diêu Trì Phật Mẫu đến đây đón tiếp chư Linh trong chín phẩm Cửu Thiên và mừng cho Giáo hội Trung Việt thành công trong bước đầu xây dựng Giáo hội.
                 Các Thánh được phong, chư Linh được độ. Giáo hội về mặc hộ âm phò có đủ chư Thánh hộ đạo, có đủ chư Thần vệ pháp, có đủ chư Linh phược tà khử ám. Quí hóa thay! Vinh hạnh thay! Lại được tiếp Sắc thọ phong một vị Tân vong quá cố, thành ngôi BỬU TÒA có đủ âm phò mặc hộ.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
                                            CỬU NƯƠNG chào./.
o

2.6 ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG giáng cơ

HỘI THÁNH TIÊN THIÊN

Châu-Minh, Tý-Thời 15-8-10 At Hợi, 1935[3]
THI :
            KHIẾT mùi Đạo[4] , dựa nơi thanh nhã,
Gắng lòng son đặng trả oan khiên;
Ai ôi ! chớ đắm kim tiền,
Nợ trần đeo vướng, dạ thiền[5] khó tu.  
            KHIẾT CỬU NƯƠNG kính chào tỷ muội !
            Ngày Thu đến !
Bước Đạo Trời mau khắn khít ;
Nét tinh hoa,
Chớ say đời mà lu lợt Đạo Mầu;
Hô châu, thốt ngọc[6] để mà nhủ khuyên,
Thu đã đến !
Tục trần sao còn bao phủ ?
Tiết Thu vàng[7] ,
Nay ủ dột nét xuân[8] tươi ;
Trần ai mang nặng tiếng hồng quần,
Sao chẳng hỗ muôn phần trong bước Đạo ?
Lời vắn tắt,
Giáng đàn cơ, tiết tháo[9] ;
            Chào tỷ muội !
Chốn hư không, lai đáo Diêu Cung. Thăng
&

2.7 ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG giáng cơ

GIÁO HỘI CAO ĐÀI THỐNG NHỨT.

HƯỜN CUNG ĐÀN, LỄ VÍA ĐỨC DIÊU TRÌ
Tuất Thời 14.08.Canh Tuất (14-09-1970)[10]

CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG – Chị mừng chung, các em an tọa nghe Chị liên hành.
THI :
NHỨT niệm Cao Đài hạ thế gian,
NƯƠNG theo ngũ sắc giáng tiền đàn;
TIÊN Thiên chiếu điển hồi trần cấu,
NỮ Đạo khai thông hội ngọc bàn.
THI :
Ngọc bàn NHỊ ngộ thưởng hồi môn,
Cảnh báu NƯƠNG mây được bảo tồn;
Vật lạc TIÊN phàm phân lòng trược,
Mừng thay NỮ đạo sắc Từ Tôn.
THI :
Từ Tôn chuyển tiếp chiếu TAM NƯƠNG
Hạ thế phân qua đặng hiểu tường;
TIÊN NỮ hồi chầu khi tái ngộ,
Bàn Đào Hội Yến hộ Tây Vương.
THI :
Mê đồ cảnh tục hưởng là bao,
Chuyển bút du dương phóng điển vào;
Cõi tục lưu truyền vì hiện tượng,
LỤC NƯƠNG TIÊN NỮ hạ Bàn Đào.
THI :
Kỳ Tam BÁT ngoạt luật hoằng khai,
Phổ tế NƯƠNG theo đúng tháng ngày;
Lẫn lộn TIÊN phàm nơi vị cũ,
Phướn trần NỮ Đạo phất trần ai.
THI :
Trần ai CỬU cửu luật khôn càn,
Tiên cảnh NƯƠNG cơ xuống điển đàn;
Cảnh tục TIÊN phàm đồng nhứt mạch,
Hiệp hòa NỮ Đạo tử tôn ban.
CỬU NƯƠNG TIÊN NỮ – Chị mừng thay giờ Hội Yến Bàn Đào, Chị ngự trần hộ giá cùng chư Phật Tiên đều hạ trần mừng ngày Hội Yến Bàn Đào. Vậy các em tiếp lịnh chư Tiên hạ thế. Chị xuất ngoại. THĂNG./.
o

2.8 ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG giáng cơ

VẠN QUỐC TỰ (CHƠN LÝ ĐÀN)

Tuất thời, 14 tháng 8 Quí Sửu (10.9.1973)[11]
………………………
THI
                                    NHỊ khí âm dương hiệp hóa sanh,
                                    NƯƠNG hòa vạn vật thể hình thành;
                                    TIÊN bang trần thế đồng nguyên lý,
                                    NỮ đức nhu hề đạo chính danh.
            NHỊ NƯƠNG TIÊN NỮ xin nhường bút.
THI
                                    TAM tài định vị hữu nhơn gian,
                                    NƯƠNG tử trùng hưng thế đạo thành;
                                    TIÊN tục do hà phân lưỡng lộ,
                                    NỮ nam hề tại tổng trì danh.
            TAM NƯƠNG TIÊN NỮ xin nhường bút.
THI
                                    TỨ tượng sanh yên tứ quý sanh,
                                    NƯƠNG cơ vạn vật khởi tài thành;
                                    TIÊN Thiên bát quái lư trung xuất,
                                    NỮ đức trinh hề nhứt thế danh.
            TỨ NƯƠNG TIÊN NỮ xin nhường bút.
THI
                                    NGŨ hành tương khắc hựu tương sanh,
                                    NƯƠNG tại trung ương thổ vị thành;
                                    TIÊN phật dụng cơ hòa ngũ khí,
                                    NỮ lưu hề đạt đắc Tiên danh.
            NGŨ NƯƠNG TIÊN NỮ xin nhường bút.
THI
                                    LỤC độ thời thường chuyển pháp sanh,
                                    NƯƠNG trung yểu yểu hiện minh thành;
                                    TIÊN du nhứt xứ phi phàm tục,
                                    NỮ tánh hòa hề lập đạo danh.
            LỤC NƯƠNG TIÊN NỮ xin nhường bút.
THI
THẤT nhựt trì hành nhứt điểm sanh,
NƯƠNG Nương xuất hiện tại không thành;
TIÊN gia phật xứ giai ngô thất,
NỮ đạo hòa hề xuất thế danh.
            THẤT NƯƠNG TIÊN NỮ xin nhường bút./.
Ì

2.9 ĐỨC CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG giáng cơ

THÁNH THẤT BÌNH HÒA,

Tý thời Rằm rạng 16 tháng 8 Canh Tuất (15-9-70)
THI
CỬU thập lục nguyên xuống cõi trần,
VỊ ngôi mờ mịt bởi phàm thân;
TIÊN   miền đạo thiệt trường miên hưởng,
NƯƠNG đạo độ đời tạo Thánh ân.
            CỬU NƯƠNG TIÊN NỮ, chào liệt vị Thiên mạng lưỡng phái đẳng đẳng đàn trung.
            Giờ phút Thiêng Liêng nghiêm trọng này cùng các chư Tiên ngự trần chứng lễ, Cửu Nương Tiên Nữ vâng lịnh báo tin có Đức Mẫu Nghi hạ điển. Nhân dịp Trung Thu tiết đã về, lâu ngày giáng cơ, Cửu Vị Tiên Nương đồng chúc mừng và lưu lại cùng chư linh căn nguyên chưởng một vài câu đạo lý;
BÀI :
Bao năm một tấm lòng son,
Điểm tô cho rạng nước non của mình;     
Hi sinh ai cũng hi sinh,
Bàn tay xây dựng thanh bình muôn phương.
Kìa ánh sáng thái dương vừa chiếu,
Nữ sứ đồ đồng điệu hành ca;
Vang vang lên nhạc đạo thái hòa,
Thức tỉnh kẻ trầm kha thế sự.
Đại Đạo sanh nguyên tam tứ ngũ,
Cao Đài khai thủy bắc đông tây;
Phận quần thoa nào quản đó đây,
Làm cho sáng danh Thầy chí cả,
Thân uẩn trược hễ vay thì trả,
Chốn phong trần tá giả vi chơn.
So chi những thiệt cùng hơn…
            Vậy chư liệt vị thành tâm tiếp giá, Cửu Nương Tiên Nữ đồng xuất ngoại ứng hầu, thăng ./-
Ì
2.10 BÀI THÀI XƯNG TỤNG CÔNG ĐỨC
ĐỨC CỬU NƯƠNG TRONG LỄ HOA ĐÀI
NGỌC LINH THÁNH TỊNH, 04.12.Kỷ Hợi (1959)
THI :
THÁI Ất Thần Kinh đã phổ truyền,
THƯỢNG căn nên học để tầm nguyên;
ĐẠO Trời đã đến ngày chung cáo,
TỔ khuyên môn sanh hãy ráng chuyên.
…………
            Dưới đây là 9 bài thài, các con sẽ lấy làm lạ mà có nhiều bài có khác về ý nghiã, bên THẬP NHỊ CÔNG NƯƠNG hãy còn nhỏ, nhưng trong CỬU VỊ NỮ PHẬT cũng có kẻ nhỏ, người lớn, những bài xưng tán nó không mường tượng nhau, xưa nay các con học đạo nghe nói CỬU NƯƠNG … . trừ ra các con chỉ biết LỤC NƯƠNG là phất phướn chiêu hồn, mà hôm nay Thầy ban cho các con 9 bài Thài ấy các con để ý mà hiểu phận sự một vị Nữ Phật trên Diêu Cung. Thầy cũng nương dịp này mà dạy đạo cho các con đó.
……….
ĐỆ LỤC NƯƠNG :
Đứng trước bến Ngân Hà phất phướng,
Tiếp dẩn đoàn linh chưởng hồi nguyên;
Dắt đem đến cửa cung Tiên,
Đem vào chầu Đức Mẫu Thiên Diêu Trì.
Đài Hoa hội trường thi linh chưởng,
Mở lòng từ đoái tưởng linh căn;
Điễn linh chiếu xuống muôn lằn,
Dắt dìu hết đám linh căn ly trần.
&
………………
ĐỆ BÁT NƯƠNG :
Đờn Tỳ bà tay Tiên phổ biến,
Tại Diêu Đài khoát tiếng thanh âm;
Gọi kêu linh chưởng lạc lầm,
Kíp mau về cõi huyền thâm kịp kỳ.
Trên mở lượng từ bi bảo hộ,
Đã quyết lòng cứu độ chơn linh;
Tay lành chống chiếc thuyền linh,
Độ người thế tục Diêu Đình hồi qui.
&
ĐỆ CỬU NƯƠNG :
Cặp song kiếm thư hùng chiếu khí,
Để mở cơ huyền bí độ đời;
Khí thiêng bao phủ khắp nơi,
Tìm người ngộ cảnh luân vơi dắt dìu.
Trên Thiên cung đã nhiều công cả,
Chưởng hậu quân hộ giá Mẫu Hoàng;
Nữ hùng tiết tháo tiếng vang,
Hoa Đài chiếu điển hồng quang hộ trì.
o

2.10 MỘ CÔ CHÍN

Triều Liên


Ngày còn bé, cứ mỗi lần đến tiết Thanh Minh, tôi theo cha mẹ đi tảo mộ tổ tiên. Ngoài mộ ông bà cố, ông bà nội, tôi còn nhớ, có một ngôi mộ bằng đá xanh, nền cao, bia mộ thật trang trọng, chung quanh có vòng thành bao bọc, nên dường như có vẻ đơn độc.
Đây là mộ cô Chín, con gái út của ông bà nội tôi. Cô Chín xuất giá được vài năm, chưa có con, bị bệnh qua đời. Để vong linh cô đỡ tủi, các bác tôi thu xếp giao cho một người cháu lo việc thờ tự, chăm sóc mộ phần của cô như con cô.
Chúng tôi ở xa , mỗi lần về thăm mộ tổ tiên, đều đến thắp hương cho cô, một người cô mà chúng tôi rất kính yêu vì lúc sanh tiền cô rất yêu thương và chăm sóc các cháu.
Đối với bà con xóm làng, cô được tiếng là một cô gái đẹp người, đẹp nết, sống nhân hậu với tất cả mọi người chung quanh. Khi cô mất, láng giềng ai cũng thương tiếc. Đám tang cô, người đưa tiễn rất đông.
Rồi thời cuộc đổi thay, con cháu trong họ tản mác dần, đi làm ăn nơi khác, số ở lại không bao nhiêu, cho nên các ngôi mộ cũng quạnh hiu, ít được thường xuyên hương khói.
Có một lần, tôi cùng một người bạn đạo về dự lễ Trung Thu Hội Yến Diêu Trì tại Tòa Thánh Tây Ninh, tôi được nghe giới thiệu về bức tượng “Đức Mẹ và Cửu vị Tiên Nương” thờ nơi bửu điện, trong đó có hai vị trước kia có xác phàm ở Việt Nam, là Thất Nương Vương Thị Lễ và Cửu Nương Cao Thoại Kiết. Tiếp theo đó, khi sang viếng Hộ pháp Đường, đến hậu cung, nơi thờ các vị thân hữu của Đức Hộ Pháp, tôi hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy trong số các hình thờ nơi đây có bức chân dung của cô Chín tôi .
Người hướng dẫn giới thiệu từng bức ảnh....”Cô Cao Thoại Kiết lúc sanh tiền quê ở Bạc liêu, sau khi qui liễu đã trở về ngôi vị Cửu Nương hầu Đức Mẹ ở cung Diêu Trì. Các vị Tiền khai Đại Đạo bước đầu cầu cơ, được các vị Thiêng Liêng về tiếp điển luận bàn việc Đạo, trong đó có việc kết nghĩa anh em với cô Vương Thị Lễ và Cao Thoại Kiết.
Thanh Minh năm nay, tôi có địp về thăm mộ cô Chín. Mộ cô đã được sửa sang, tôn tạo khang trang, sáng sủa. Trước kia, mỗi lần đến mộ cô, phải lội qua một con mương; nay đã có một chiếc cầu bê tông bắc ngang. Trước mộ, xưa kia là bãi đất cỏ mọc um tùm, nay đã được lót gạch đỏ au, khá rộng rãi. Bà con nơi đây cho biết, mỗi năm đều có nhiều bổn đạo mặc toàn đồ trắng, từ xa đến đây tảo mộ, cúng kiến cô rất trang trọng.
Đến thăm mộ cô Chín, người không biết đường, hỏi thăm “mộ cô Tiên” là người dân vùng này chỉ dẫn rất tận tình và còn cho biết “mộ cô Tiên linh lắm”.
Chúng tôi vô cùng biết ơn những đạo hữu xa gần, không quen đã thăm viếng, chăm sóc ngôi mộ và hương khói cho cô Chín tôi.                                                                      
Mùa Thanh Minh Bính Tuất ( 2006)
&

2.11 ĐỨC CỬU NƯƠNG GIÁNG CƠ

HỘI THÁNH BẠCH Y LIÊN ĐOÀN CHƠN LÝ
 (RẠCH GIÁ)

THÁNH TOÀ NGỌC KINH, DIÊU TRÌ BỬU ĐIỆN,
Tuất thời 15.8.Quý Sửu (1973)
THI :
CỬU nhị nguyên nhân đã hạ phàm,
PHẨM ngôi Tiên vị hội Kỳ Tam;
TIÊN gia độ thế nơi trần tục,
NƯƠNG bóng từ bi đáo cảnh nhàn.
            Chị mừng chung các em đàn tiền, nghe phân trần đôi đoạn :
            Giờ phút thiêng liêng triêm ngưỡng Đấng MẪU HOÀNG hạ thế, thật vui đẹp thay, hữu hạnh thay, ánh hào quang rạng chiếu, khúc Thiên nhạc hoà tấu thanh thao, mây lành bay trong tám cõi, thật là phúc hậu cho các em trong kiếp số hiện tiền mà nghe được lời vàng ngọc ban ra!
            Vậy Chị cũng để lời qua cho các em nên gắng chí thượng thừa bước thêm lên đường Thiên Đạo, xa lánh bụi trần lao tục luỵ, để về nơi mây lành nhẹ gót..
THI :
Vị nhàn quê củ cách từ lâu,
Sương gió trần ai chịu bạc đầu;
Bể tục đắm chìm trong kiếp số,
Khá ghi lời chị trở quày đầu.
HỰU :
Quày đầu Tiên cảnh chốn nhàn xưa,
Gắng chí trau tria bước thượng thừa;
Kiếp tạm u sầu mang tứ khổ,
Bồng Lai là chốn chẳng chiều trưa.
Muôn năm nhàn toại miền Tiên cảnh,
Nào có khổ phiền kiếp nắng mưa,
Khuyên cả các em lo gắng chí,
Xả thân hành đạo chí tương dưa.
HỰU :
Nay buổi thu phong Đạo hạ kỳ,
Vía lành Mẹ giáng điển vô vi;
Kìa trên hạc múa rồng đanh uốn,
Nhạc trổi tiêu thiều đón Mẫu Nghi.
Nghiêm chỉnh điện tiền, em thủ lễ,
Chuổi thần định niệm ĐỨC A DI;
Chị lui tiếp giá hầu cơ chuyển,
Kiểng đánh ngân vang thủ tiếp nghinh.
            Vậy các em thành tâm tiếp lịnh, Chị xuất cơ ứng hầu…
&



[1] Đức Tiền BỐI CAO TRIỀU HƯNG thư Tư, ĐỨC Tiền Bối CAO TRIỀU PHÁT thứ Sáu, Đức CỬU NƯƠNG thứ Chín.
[2] NGỌC ÂM CHƠN TRUYỀN, Quyển 2, tr.21-22.

[3] TIÊN-THIÊN THÁNH-HUẤN, “GIÁO-HÓA NỮ-NHI”, (Chú Thích và Diễn Giải), 1961, BÀI CỬU NƯƠNG TẢ BÚT.

[4].- Khiết mùi Đạo : mùi Đạo thanh khiết, thơm tho.
[5].- Dạthiền : tâm thiền. Có câu :” Tâm trung lo Đạo, tâm thiền lo tu “
[6].- Thốt : là nói. “ Biết thì chưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe “ . Thốt ngọc, hô châu : là lời nói ra có cảm tình gieo vào lòng người nghe, lời nói hiền hậu, đạo đức quí báu như châu ngọc. Truyện Kiều có câu :
“ Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
[7].- Ý nói : mùa Thu sắp tàn, bước vào mùa Đông, thì cảnh vật xơ rơ, lá vàng, hoa úa. Ví người con gái trỡ về già như lá vàng, hoa úa, nhụy xào.
[8].- Nét Xuân : ý nói người đàn bà nay đã tàn xuân ủ dột, còn đâu nữa nét xuân tươi ?
[9].- Tiết tháo : hoạt bát, lưu loát, lịch duyệt, rộng rãi độ lượng, tinh đời. Người tiết tháo là người có một tác phong độ lượng . tình đời, Người tiết tháo là người có một tác phong độ lượng, rộng rãi như Mạnh Thường Quân.
[10] Trích đoạn.
[11] Trích đoạn,…

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Copyright by THÁNH SẮC CHỨNG ĐẠO CAO ĐÀI © 2012