ĐỨC HUỆ
MINH CHƠN TIÊN
(MINH LƯỢC)
&
28.1* ĐỨC NGỌC HÒANG THƯỢNG ĐẾ ân ban Thánh Sắc
28.2*ĐỨC HUỆ MINH CHƠN TIÊN giáng
cơ lần đầu tiên
“TỰA
QUYỂN ĐẠO PHÁP BÍ GIẢI”
28.3
ĐỨC HUỆ MINH CHƠN TIÊN giáng cơ
TÂY
THÀNH THÁNH THẤT (CẦN THƠ)
23.4
ĐỨC HUỆ MINH CHƠN TIÊN giáng cơ
CHIẾU
MINH ẨN GIÁO (CẦN THƠ)
&
28.1* ĐỨC NGỌC HÒANG THƯỢNG ĐẾ ân ban
Thánh Sắc
CHIẾU
MINH CẦN THƠ, Ngày 27 Tháng 7 Năm 1945
Thầy mừng các con nam nữ.
THI
:
NGỌC Hư chiếu lịnh tả kinh Trời,
HOÀNG điện sửa đời đặng thảnh thơi;
THƯỢNG trí khuyên con bền dạ sắt,
ĐẾ hòa năm phái buổi chiều mơi.
GIÁO hóa quần sanh lo tỉnh ngộ,
ĐẠO hành trau đổi sửa muôn đời;
KỲ cùng chuyển tạo nền Nghiêu Thuấn,
BA cõi rồi đây chịu đổi dời.
Này các con, giờ nay Thầy giáng cơ để phong Tiên vị cho LƯỢC
để tả một quyển kinh truyền lưu hậu thế cho đủ công quả kỳ ba, nhưng vì thời kỳ sắp ngặt nên các con muốn cho Thầy ân tứ Thiên vị
để tả kinh cho gấp, còn sự biến cuộc đổi dời mà làm đàn kinh không trọn, nhưng
chưa đâu các con, song Thầy cũng nhìn theo ý muốn của các con, nên giáng cơ
phong ban cho LƯỢC để chứng vị tả quyển kinh.
THÁNH SẮC :
HUỆ phong sắc tứ tả Thiên kinh,
MINH chứng đàn trung bố điển huỳnh;
CHƠN đạo ẩn tàng tua kiếm hiểu,
TIÊN phàm thoát hóa lại Thiên Đình.
Thầy ân phong “HUỆ MINH CHƠN TIÊN” cho LƯỢC. Vậy các con giờ tý lập đàn, HUỆ MINH CHƠN TIÊN
lâm đàn cho tựa kinh.
THI
BÀI :
Nền chơn đạo Thầy đem gieo rãi,
Kỳ hạ ngươn phước tải vô biên;
Các con đã gặp chơn
truyền,
Hầu nương theo
đó thoát miền trần ai.
Nơi Bồng Đảo vui say thú vị,
Cõi trần ai vận bỉ thới lai;
Con tua để
bước dậm dài,
Kiên tâm trì chí đợi ngày Long Hoa.
Gia một lòng theo
Già kỳ chót,
Bố hồng ân bòn mót quả công;
Phận con nặng
gánh phong trần,
Đỡ nâng Hồng Lạc non sông dựng gầy.
Lời con nguyện cùng Thầy
khi trước,
Vẹn
lòng son ban phước cho con;
Dầu cho khổ trí đừng
mòn,
Vì đời lao khổ
chẳng mòn nghe con.
Khuynh Thầy chứng lòng son vì
Đạo,
Cảnh đời tàn bước Đạo cho mau;
Con ôi non nước một màu,
Màn sầu kêu gọi, lòng nào nỡ yên?
Như phần con lãnh
phần vớt chúng,
Mối huyền vi Thầy dựng nơi
con;
Rèn tâm kiên
nhẫn chớ mòn,
Đại Đồng thống nhứt mới tròn đạo chơn.
Xù con học kim đơn
phanh luyện,
Rán trì tâm bước tiến theo
Già;
Kỳ cùng mở hội Long Hoa,
Đem con khỏi
chốn ái hà đó con.
Tự con gắng lòng son vì Đạo,
Kỳ tả kinh điển báu Thầy truyền;
Gội nhuần ân huệ Tiên
Thiên,
Vô vi hạo khí từ
nhiên con tường.
Năm một lòng lo bươn đạo đức,
Bước theo Thầy Tây Vức xông pha;
Con ôi, con chớ dần dà,
Thầy ban huyền diệu đặng mà độ dân.
Báu con phải ân cần
theo Đạo,
Dặm quan hà chơn đạo kỳ ba;
Kiên tâm lập
chí nhẫn hòa,
Tuổi xanh con rán theo Già độ chơn.
Các con lóng nghe đờn Thầy
trổi,
Khúc “Phụng Hoàng” nhịp
trổi đêm thanh;
Các con lớn
nhỏ thực hành,
Có Thầy ủng hộ để dành ra thi.
Đàn tý thời huyền vi chỉ
dạy,
Huệ Minh Tiên điển rọi cho
kinh;
Ẩn vi dầu
(dấu) mối đạo Huỳnh,
Giã con ở lại Ngọc Kinh Thầy về. THĂNG
&
28.2*ĐỨC HUỆ MINH CHƠN TIÊN giáng cơ lần đầu tiên
“TỰA QUYỂN ĐẠO PHÁP BÍ GIẢI”
CHIẾU MINH CẦN THƠ, Ngày 27 Tháng 7 Năm 1945
THI :
HUỆ dân tứ chúng hưởng cơ mầu,
HUỆ dân tứ chúng hưởng cơ mầu,
MINH cảnh thần quang chiếu ngũ châu;
CHƠN bút phụ hoàng phê ngự tứ,
TIÊN chơn ân thức giải sông mâu.
Bần Đạo chào đàn trung nam nữ, Bần
Đạo đã thọ sắc tứ Thiên đình, nên giáng đàn cho kinh. Vậy chư hiền tịnh tâm
nghe, Bần Đạo cho tựa kinh.
THI :
ĐẠO mầu ban bố buổi kỳ ba,
PHÁP diệu huyền linh hiệp một nhà;
BÍ ẩn cơ mầu nhơn đắc ngộ,
GIẢI bày diệu lý kết tam hoa.
HỰU :
Tam hoa hiện xuất tại nê hoàn,
Ngũ khí triều ngươn ngũ khí cang;
Huyền tẩn xuất vi thông cừu khiếu,
Khảm ly chuyển vận đổi Khôn Càn.
THI BÀI :
Càn khôn điên đảo chuyễn xây,
Âm dương hoà hiệp cỏ cây đượm nhuần.
Lẽ Đại Đạo từ từng chuyển hoá.
Máy càn khôn vận cả châu thân;
Sửa sang gầy dựng xác trần,
Khinh thanh biện
trược đổi lần mê si.
Đạo báu quí huyền vi cao thượng,
Vốn vô hình, vô tướng chơn như;
Không
duyên, không rõ an lư,
Cao siêu tuyệt hảo hườn hư nhơn hoà.
Kìa vạn vật bao la
võ trụ,
Khắp càn khôn tinh
tú dựng thành.
Đạo
mầu chuyển hoá tam thanh,
Xuất vi huyền diệu vận hành ngày đêm.
Lần biến ra sơn
xuyên thuỷ tú,
Vạn vật đồng kiệt
trụ tinh ba;
Là
nhờ Đại Đạo dung hoà,
Nhờ nơi hạo khí biến ra muôn trùng.
Đủ vạn vật khắp
cùng thế giới,
Ba ngươn xây dựng
lại một lần;
Luân
thường khải khúc tân dân,
Phục hồi thượng cổ sửa lần nhơn sanh.
Hoá tam bửu ngũ
hành vận chuyển,
Tiếp điển quang
hườn biến hư vô;
Lạc
thơ đổi lại Hà đồ,
Dương sanh âm tuyệt cơ đồ tự nhiên.
Kinh này hai mươi
thiên là đủ,
Ấn tầm truyền ký
chú lớp lang;
Dạy
rồi Thiên đạo minh quang,
Tựa xong dứt điển bãi đàn Lão lui./.
Ì
28.3 ĐỨC HUỆ MINH CHƠN TIÊN giáng cơ
TÂY THÀNH THÁNH THẤT (CẦN THƠ)
Tý thời 13 rạng 14 tháng 3 Canh
Tuất (18-4-1970)
HUỆ
MINH CHƠN TIÊN, Tiên Huynh chào chư hiền hữu lưỡng đài. Nhân ngày khánh đản của
Đức Ngô Đại Tiên nên Ngài có mời Đại Tiên Trưởng đến đàm đạo cùng giúp ích chư
hiền hữu nơi miền Tây Đô này một vài sáng kiến và phương thức hành đạo để khỏi
uổng công trình khó nhọc trên thế đồ, trong sứ mạng thế thiên hành hóa. Tiên Huynh
vâng lịnh Đức Ngô Đại tiên đến để vài lời báo tin ấy cùng chư hiền hữu. Vì thời
giờ có hạn trong nhiệm vụ nên Tiên huynh không tiện hàn huyên nhiều thêm nữa
cùng quí cố hữu xa gần. Tuy nhiên có một số lớn chư hiền hữu không biết Tiên
Huynh là ai, do đó Tiên Huynh xin để lời khiêm tốn tự giới thiệu nhủ danh là
trần văn Lược quê ở Ban Thạch, là nguyên một môn đồ của Đức Ngô Đại Tiên, sau
khi hoàn thành nhiệm vụ, được trở về cùng với chư vị trong hàng Tiền Bối quá
vãng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Tiên
Trưởng sắp đến, chư hiền hữu thành tâm nghinh tiếp, Tiên Huynh xin tạm giã từ,
hẹn còn ngày tái ngộ, thăng./.
TIẾP
ĐIỂN :
THI
Sóng nước trùng dương phủ cõi bờ,
Nhận chìm lữ khách kẻ bâng quơ,
Thuyền nan không vững rồi e đắm,
Lèo bở chẳng gìn ngại xác xơ,
Đời chẳng nên đời cho ích chúng,
Đạo không nên đạo để dân nhờ,
Cái ta
còn nặng trong tư kỷ,
E lại
hoài công vạn ước mơ.
LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG THÁI BẠCH KIM
TINH, Bần Đạo chào chư Thiên mạng, chư hướng đạo, và mừng chư hiền đệ muội
lưỡng ban.
Chư hiền đệ muội! hôm nay, nhân ngày
kỷ niệm thoát xác của Ngô Đại Tiên, người có mời Bần Đạo đến để cùng chư hiền
đệ muội đàm đạo để tìm ra cái lý. Như vậy, với tư cách là một đạo khách đối với
chư hiền đệ muội, Bần Đạo mời chư hiền đệ muội đồng an tọa.
Chư hiền đệ muội! Từ lâu rồi, nếu
nhớ không lầm là đã giáp hai năm trời của người dương thế, Ngộ Đại Tiên lại mời
Bần Đạo giáng đến cùng dự buổi đại lễ tương tự như hôm nay. Nói chắc hơn là đã
ba năm tròn, một ngày tại Dương Đông, nơi bốn bề trùng dương bao phủ, một đêm
trăng mờ, cùng chư Tiên Phật dự Đại Hội Bàn Đào nhân ngày khánh đản này. Hôm
nay Bần Đạo cũng muốn gợi lại những gì trong tâm tư của người hướng đạo đối với
tiền đồ của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Bần Đạo là một vì Tiên đắc quả trước,
chư hiền đệ muội là những vị tiên sẽ đắc vị sau trong khi hoàn thành sứ mạng.
Sự trước sau chỉ căn cứ vào thời gian của quả địa cầu mà tính.
Thật ra, đối với vũ trụ hư không,
thì không thể luận ai là trước mà ai là sau. Thử nhìn xem một tỷ dụ. Như cây
đậu, trổ ra bông trái đậu. Từ bông trái ấy rụng xuống đất, mọc mầm lên tược trở
thành cây nhánh lá, rồi trổ ra bông trái đậu. Cứ như thế trong bánh xe luân,
nào ai dám quyết chắc rằng cái nào có trước cái nào có sau giữa cây đậu và hột
đậu.
Đạo lý thật là một cái lý gì thậm
thâm, bất khả tư nghị, bất khả biện luận. Từ cổ chí kim, những nhà khảo sát
nghiên cứu về đạo học đã viết ra không biết bao nhiêu là kinh điển, nhưng chỉ
là căn cứ vào óc suy luận và tầm hiểu biết của mình dựa trên vũ trụ và nhân
sinh, nhưng chỉ là những khía cạnh nào đó của vấn đề mà thôi.
Hôm nay chư hiền đệ, muội
được sự đãi ngộ của Ngô Đại Tiên, để làm một món quà kỷ niệm đáp ứng với lòng
thành đã từ bốn phương trời qui tụ về đây dự ngày đại lễ. Chư hiền đệ, muội!
Xuyên qua một vài việc mà Bần Đạo vừa nêu lên, để chư hiền đệ muội suy nghĩ hầu
lưu ý đến bổn nguyên của mình, tìm ra từ chỗ khởi thủy đến ngày hoàn nguyên và
những điều kiện cần phải có cho công cuộc hoàn nguyên.
Trước khi đi dự lễ, chư hiền đệ muội
khởi đầu từ tư gia hoặc địa phương, sau khi dự lễ xong sẽ trở về cố quán, chớ
không lẽ còn đi trong phương trời vô định. Trước khi đến làm người tại thế
gian, chư hiền đệ muội cũng xuất phát từ chỗ khởi thỉ, mà chỗ khởi thỉ ấy không
phải là nhục thể của con người, mà là từ một khối Đại Linh Quang trong đức háo
sanh của Thượng Đế. Các Tiểu Linh Quang từ khối Đại Linh Quang phân thân xuống
trần, tùy theo nhiệm vụ và sứ mạng đã định của mỗi một đơn vị đến cõi dinh hoàn
nầy để làm công cuộc tiến hóa trong đức háo sanh ấy.
Cũng như đã nhiều lần bày giải,
những Tiểu Linh Quang ấy đã ngấm ngầm ẩn tàng từ loài khoáng sản đến thảo mộc
côn trùng nhân loại rồi tiến đến hàng Thần Thánh Tiên Phật. Sự tiến hóa mau
chậm tùy theo trạng thái của mỗi thể, từ loài chỉ có một sanh hồn đến loài có
cả sanh hồn, và chí đến loài có đủ cả tam hồn là sanh, giác và linh hồn.
Trong một chuỗi tiến hóa đó, mỗi hồn
hay là Tiểu Linh Quang có mang mỗi hình thể khác nhau, mỗi một giai đoạn, mỗi
một tiến trình đều là tạm mượn để mà tiến, không nơi nào là trụ tướng bất di
bất dịch.
Trải qua một giai đoạn dài trên
đường tiến hóa, những hồn ấy ví như một hoặc những khách lữ hành, từ Đông sang
Tây, từ Nam sang Bắc, đã thay đổi biết bao nhiêu lần phương tiện để di chuyển.
Những phương tiện ấy từ đường thủy, bộ, đến đường hàng không. Linh hồn đối với
những phương tiện ấy, đó là thể xác của mỗi giai đoạn nó đã mang. Vì vậy,
Thiêng Liêng thường nói: Cõi đời là chốn phù du, là sông mê, là giả tạm. Đừng
ai quá chấp ngã mà ôm chầm lấy nó để rồi hủy hoại bước đường tiến hóa.
Có người nghe nói như vậy, đương làm
ăn kinh doanh sự nghiệp, đương trong cảnh phu ấm thê vinh, phụ tử tương phùng,
rồi vội vàng dứt bỏ tất cả để tìm cái không. Trong lúc đó cũng có những người
không tin, mãi đắm đuối mê say ôm ghì lấy cái giả tướng ấy. Cũng ví như người
lữ khách muốn đến vùng Mỹ Châu mà ôm ghì lấy chuyến tàu hỏa tốc hành từ miền
Nam đến Đông Hà v.v.. Hai người ấy ở hai hoàn cảnh và hai tâm trạng đều trật
hết, ấy là sai lý đạo.
Đã có lần Thiêng Liêng dạy : chỉ có
những thực tại mới phục vụ cho cái thực tại. Nhưng phục vụ để cùng biến dưỡng,
cùng tiến hóa hòa nhịp với thiên lý vũ trụ, chớ không phải phục vụ cho tư tâm,
cho bản ngã, cho tư kỷ, cho tham vọng. Mượn cái giả đó để làm cái chân thật
vĩnh cửu.
Ví như có lần đã dạy : Một quyển
sách vần A, B,C …không làm cho học sinh trở nên hàng bác học, nhưng muốn trở
nên hàng bác học phải khởi thỉ và trải qua quyển sách vần ấy v.v..
Từ cái giả đến cái chân, phải chịu
khó suy nghĩ biện luận để áp dụng và thực thi nó cho đúng chỗ, đúng lúc. Chư
hiền đệ muội vào cửa đạo tuy là khó, nhưng cũng còn dễ hơn là giai đoạn học
đạo, hành đạo và đắc đạo.
Như đã dạy: Trong nhục thể bản thân
con người đã có những thể phụ, đó là mọi sinh hoạt linh động gạn lọc cho cơ thể
ấy, như thất tình lục dục, lục căn, lục thức, lục trần, tam thi và cửu cổ.
Những danh từ đó để chỉ định những cấu thể của con người, ví như trong cơ thể
con người có biết bao nhiêu tế bào cấu tạo mà thành, cũng như có biết bao nhiêu
vi trùng, nếu dùng trụ sinh diệt hết vi trùng ấy thì người cũng diệt theo. Nhưng
những cấu tử trong bản thể con người, nếu biết sử dụng nó, nó sẽ giúp ích rất
nhiều người, nó sẽ giúp ích rất nhiều cho người học đạo, hành đạo để đắc đạo.
Chủ nhơn ông phải điều khiển, nắm qui luật, hướng dẫn chúng, như người cầm lái
con thuyền để đến mục phiêu đã định. Nếu người cầm lái không vững, gặp sóng to
gió lớn, thuyền đã xiêu dạt vào nơi vô định, có lúc sẽ bị đắm thuyền. Còn chủ
nhơn ông điều khiển những thể phụ như thất tình, lục đục v.v.. chúng sẽ giúp
con người đắc đạo, bằng ngược lại, chúng cũng lôi kéo con người vào vòng đọa
lạc.
Thử làm bảng đối chiếu sẽ thấy rõ
như sau:
Khởi thỉ nghe người thuyết đạo,
không để ý, nghe nhiều lần , thấy hay hay, lưu ý tới, nhưng chưa biết. Nghe
thêm một thời gian, biết được lý đạo là hay, nhưng cũng chưa tin, đến gặp một
bất trắc hay cảnh ngộ ngẫu nhiên nào đó, mới tin lý đạo là đúng là hay, nhưng
chưa chịu học. Một thời gian nghe thấy hiểu biết và tin rồi, mới chịu học. Đó
là ngày đầu nhập môn vào cửa đạo, nhưng học để hiểu chớ chưa thực hành. Học để
tìm hiểu, phải làm thế nào để cầu xin Thiêng Liêng cho có hiệu quả. Trên khoảng
đường học hỏi đó, đã thấy được điều kiện cần phải có để được Thiêng Liêng phò
trì hộ hựu ban ơn. Đó là giai đoạn hành đạo lập công. Trong khoảng thời gian
hành đạo lập công. thường thường người đạo hữu bị vấp phải các điều sau đây :
hành để được Thiêng Liêng chấm công ban phước, hành để được tiếng khen mình là
người thoát trần học làm Tiên Phật, hành để được cái danh trong hàng chức việc,
hành để được cái quyền điều khiển ra lịnh nhơn sanh trong phạm vi hạ thuộc,
hành để dựa vào đó có tư lợi tư quyền, hành để được công đầy quả đủ làm nền
tảng cho sự tu học, cho sự kiến tạo lâu đài đạo đức. Trong lúc đó có người cũng
còn vấp phải những khía cạnh khác, nghĩa là dựa vào một tổ chức đạo, chung góp tài
lực vật lực để được cái danh là hàng anh lớn, nhưng sự học đạo và hành đạo cộng
lại chẳng có là bao. Cũng có những vị đạo tâm muốn hành nhưng không có mục tiêu
rõ rệt cho đời hành đạo. Có người đã định mục tiêu nhưng không có biết soạn
thảo chương trình liên tục. Có người khi đã soạn thảo chương trình rồi lại
không có kế hoạch và phương pháp thực hành. Do những thiếu sót đó là có thủy
không chung, có tiền không hậu, làm tùy lúc cao hứng, làm tùy khi dao động, làm
vì nể nang tình cảm, vui đâu chúc đó, khi thích thì làm, khi buồn hoặc không
ưng ý thì bỏ dở
Thế nên Thiêng Liêng thường nói :
gây dựng khởi thỉ cho một tổ chức tuy rằng khó, nhưng sự nuôi dưỡng liên tục để
phát triển điều hòa cho đến ngày thành công đắc quả lại càng rất khó trăm muôn.
Muốn kiện toàn và thành công trong
một tổ chức hành đạo, những người trong cuộc phải tỏ ra có tinh thần thiết tha
vì việc đó, phải chân thành, phải khiêm tốn, phải có tác phong đạo hạnh, phải
có mục tiêu, chương trình, kế hoạch, phương pháp thực hành và trường kỳ nuôi
dưỡng.
Trong hai ngày rồi, Bần Đạo đã hội
kiến thảo luận cùng với NGÔ ĐẠI TIÊN, có sự tham dự của Chư Vị ĐẠI ĐẠO TIỀN
KHAI TÔN LINH QUÁ VÃNG. Theo đó, thì chư vị rất xót thương tội nghiệp cho sự
hành đạo nơi địa phương Tây Đô này, không có một cuộc lễ kỷ niệm nào mà chư
hiền đệ muội bỏ qua, dám chung đậu, dám tốn kém nhơn lực, vật lực, tài lực, và
giờ giấc nghỉ ngơi, cũng như đã hi sinh sức khỏe cho cuộc lễ được long trọng để
nói lên lòng biết ơn, sự chiêm ngưỡng đối với ai nghĩ đến những ngày kế tiếp
phải làm gì để nuôi dưỡng và phát triển những lời lẽ lý thuyết như khuôn vàng
thước ngọc mà những diễn giả đã đem hết tâm tư soạn thảo thành đề tài thuyết
trình.
Ôn lại mấy mươi năm qua rồi, đã có
mấy mươi lần hành lễ, làm bài toán cộng, từ sự ưu tư đến sự phí tổn về vật chất
ấy có đem lại kết quả được ngần nào cho hướng đi để thực hành câu “thế Thiên
hành đạo, xiển dương chánh pháp, phổ truyền giáo lý, phổ độ nhơn sanh quày về
đường lương thiện để thể hiện tình thương, của Thượng Đế trong nếp sống an lạc
thái hòa”.
Khắp nơi
nói chung, nơi này nói riêng, các cuộc lễ vẫn tổ chức, nào thống nhất qui hiệp
liên chi, đoàn kết tình thương trong lúc đó sự kết quả không được mong muốn, có
nơi lại trái ngược với hoài bão.
Bần Đạo thấy tại Tây Đô này, năm
xưa, khởi thủy có Cao Đài Thượng Đế, Hội Giáo Chiếu Minh. Từ đó nẩy tược đâm
chồi ra nhiều tổ chức hành đạo khác như Phật Thất, Huệ Đức Thanh, rồi Tam Giáo,
rồi Tam Thanh, rồi Tòa Thánh Lâm Châu. Đến ngày giờ này thử kiểm điểm lại sự
thành tựu của những phần hành đạo ấy đã đi đến đâu và như thế nào.
Tại Tổ Đình đã có một nề nếp từ xưa,
nơi này có thể mãi làm nơi chiêm ngưỡng bái yết di tích của Đạo Trời, dầu chưa
được cải tiến vì vẫn giữ theo nề nếp đã có trong buổi sinh tiền của Ngô Đại
Tiên.
Nhìn lại miền Tây Đô này, đáng lý ra
phải có một tổ chức hành đạo vĩ đại để làm ngọn đèn năm trăm ngàn nến cho sự
phổ truyền chánh giáo, tiếc vì tinh thần đã ly tán vì sự chấp ngã mà ra.
Bây giờ đây, Bần Đạo ngỏ lời với chư
hiền đệ muội sở tại Tây Đô này, không luận riêng cho nhóm nào, lấy tư cách là
một trong Tam Trấn Oai Nghiêm Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Bần Đạo lưu ý, cần nên có
một Giáo Hội hay một Hội Thánh tại vùng này, không dùng danh từ mới, chỉ dùng
những danh từ đã có. Thí dụ như Giáo Hội Chiếu Minh,v.v… Thành phần sẽ qui tụ
tất cả những nhân vật của các nhóm còn lại đã và đang thiết tha vì sự hành đạo.
Hãy cố hợp lại thành một tổ chức, thành một thực thể trụ tướng, căn cứ quyền
pháp đạo luật Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Trách vụ
này là phần của Thập Nhị Thiên Huyền và Võ Khúc Tinh.
Trụ tướng và vấn đề có thành hay
không là do sự dung hợp chế giảm những dị đồng để hành đại sự, chớ không phải
ngồi chờ trái rụng. Nếu không lưu ý và hành được, thì dầu có trăm ngàn năm sau,
mỗi năm cử hành đôi ba cuộc lễ, thì sự kiện hiện tại vẫn hoàn hiện tại như mấy
chục năm qua. Và Bần Đạo lưu ý chư hiền thập nhị Huyền Thiên còn sinh thời rằng
: Thời cuộc và hoàn cảnh không phải dễ dãi cho phép những tổ chức đau ốm bịnh
hoạn như thời gian qua đâu nghe à!
Bần Đạo để lại thêm mấy dòng sau
đây, ung đúc và khuyến khích tinh thần hành đạo những hiền đệ.
Thiện Tâm Bùi Thiện Lai :
THI
Đã từng lê gót
khắp tây đông
Đại Đạo Tam Kỳ
để lập công;
Giáo lý phổ
thông chưa được rộng,
Đạo Trời quảng
bá vẫn còn nông.
Bao phen thống
nhứt bao lao trí,
Mấy lúc quy
nguyên mấy khổ lòng;
Nhìn lại tuổi
đời sương phủ tóc,
Con đường thành
đạo vẫn xa trông.
Thiên Huyền Vân :
THI
Muốn nên Chưởng
Quản nhị Hình Đài,
Tân pháp Chánh
Truyền thật khó thay;
Công phải nên
công nam chí bắc,
Đức cho dày đức
khắp đông tây.
Nhọc nhằn tận
tụy dìu sanh chúng,
Khổ cực hi sinh
dắt chủng loài;
Thánh trước
muôn đời còn sử tạc,
Nào đâu cậy phú
với tiền tài.
Võ Khúc Tinh hiền đệ !
THI
Tướng hùng điều
khiển khắp muôn binh,
Nhờ được lòng
dân ủng hộ mình;
Hướng đạo muốn
nên trang giáo phẩm,
Khép mình đạo
luật mới nên hay.
THI
Hay dở đã từng
trải mấy phen,
Bao nhiêu khổ
cực bấy sang hèn;
Thương đời giúp
đạo từng nguy hiểm,
Bền chí đến giờ
cũng đáng khen.
HỰU
Khen chẳng khen
suông bởi mến hiền,
Muốn nên đại sự
sánh thần tiên;
Đức tài phẩm
hạnh đi đôi nhé,
Chinh phục nhân
tâm mới trọn hiền.
Thiên Huyền Minh :
THI
Sá vì biển cả
dựng nên hòn,
Mà chẳng xây
đồi rất cỏn con;
Thống nhứt là
cơ quan đại sự,
Tây Đô sở tại
rán công bòn.
HỰU
Bòn mót lựa gì
nhỏ với to,
Công khanh thuở
trước cũng là trò;
Kiến tha từng
hột lâu đầy tổ,
Đạo nghiệp nơi
này chung trí lo.
Thiên
Huyền Thanh :
THI
Công xưa hành
đạo đã chung tình,
Phần thưởng
ngày nay được hiển vinh;
Thể diện Tây Đô
trang đạo sử,
Tiếc chi giấy
mực chẳng lo in.
Thiên
Huyền Tâm :
THI
Hòa mình đại sự
rán chung hành,
Công quả mà chi
tiếng lợi danh;
Dĩ vãng buồn
vui vùi quá khứ,
Thiêng Liêng
ngôi vị sẵn còn dành.
Thiên Huyền Đức :
THI
Tài đức nào đâu
phải kém ai,
Hờn vì cộng tác
với vô tài;
Chung tay xây
dựng cơ quan Đạo,
Đẹp mặt địa
phương xứ sở này.
HỰU
Nguyên nhân
xuống thế sửa sang đời,
Nào phải ngồi
nhìn kẻ hụp bơi;
Đem đạo đem
tình xây đạo nghiệp,
Dắt dìu sanh
chúng thế tay Trời.
Thiên Huyền Quang :
THI
Tiền kiếp nhiều
công đạo đức hành,
Đời nay tử ấm
với thê vinh;
Chuỗi đời còn
lại lo hành đạo,
Chẳng thẹn
Thánh danh nghĩa của mình.
Võ Hồng Hoàn nghe :
THI
Thật thà chăm
chỉ việc trong ngoài,
Sổ sách hằng lo
sợ cộng sai;
Tâm đạo khôn bù
người trí trá,
Vui lên lập đức
với đua tài.
Thông
Vân hiền đệ nghe :
THI
Tuổi đời chưa
phải chất bao nhiêu,
Sức khỏe thương
cho đã xế chiều;
Cát bụi phong
trần thời ấy đã,
Qua rồi ôn lại
rất buồn hiu.
HỰU
Hiu quạnh đêm
trường trán gác tay,
Công trình công
quả đã cao dày;
Công phu chưa
có cần tu học,
Dọn dẹp đường
về khỏi lạc sai.
Từ Linh :
THI
Không sờn lận
đận khảo liên miên,
Con cái ốm đau
với bạc tiền;
Tâm đạo đã gìn
nay được hưởng,
Bền Tâm thẳng
bước đến non Tiên.
Minh Mẫn :
THI
Minh tâm muốn
bước thủy chung gìn,
Mẫn cán quả
công đã tận tình;
Dìu dắt đàn em
còn thiếu sót,
Trước Mai gìn
giữ Đạo công trình.
THI
Hòa nhã đệ huynh đạo đức hành,
Lắm phen nguy hiểm đến thân sanh;
Bền lòng không
ngại gì ngăn Bửng,
Trời Phật hộ cho kẻ giật mình.
Nguyễn
Văn Hiền nghe :
THI:
Cây già một
nhánh tược xinh xinh,
Gương đạo song
thân rán chí gìn;
Bù lại lỗi lầm
xưa đã tạo,
Ơn đền nghĩa
trả với thân sinh.
Hồng Liên Hoa :
THI
Nghiệp trước đa
mang quá nặng mình,
Liễu bồ lận đận
kiếp ba sinh;
Chung tay hành
đạo cùng thân phụ,
Đạo nghiệp Tây
Đô quyết chí thành.
Huệ Thanh Quang, Huệ Hồng Vân,
Huệ Hồng Quang, Huệ Ngạn Chơn, Thiện Căn :
THI
Thiên tướng vai
trò trước đã mang,
Lẽ đâu vì nặng
gánh gia cang;
Bao nhiêu nhiệm
vụ còn dang dở,
Mỏi gánh lại
quăng ở giữa đàng.
HỰU
Đàng đạo thinh
thinh quá rộng dài,
Tội trừng công
thưởng chẳng đơn sai;
Tây Đô đạo
nghiệp cùng nhau lại,
Chung trí chung
tâm với đức tài.
Thiện Đức hiền đệ nghe đây :
- Chiếu lòng thành khẩn vì đạo sự
của hiền đệ,
- Chiếu đề nghị của DI LẠC TÔN PHẬT,
Bần Đạo đặc ân cho hiền đệ sau đây :
BÀI
Ngày Tân Mẹo
Trực Khai mùng Bảy,
Đúng Ngọ Thời
vọng bái Cao Minh;
Đạo Kỳ
cùng với phuớn linh,
Trùng trùng ân điển giáng sinh cõi trần.
Hiền Thiện
Đức bổn thân hành lễ,
Hiệp hội đồng
huynh đệ đó đây;
Cùng
nhau giáo lý phô bày,
Giác đời tỉnh ngộ cơn say bụi đời.
Đàn cơ lập Tuất
thời ngày ấy,
Để Thiêng Liêng ban rải huyền vi;
Cho đời hiểu đạo là gì,
Để đời đem đạo cứu nguy nhân loài.
Sáng mùng Tám đúng ngay giờ Tỵ,
Nơi Hội Trường giáo lý thuyết minh;
Đề tài then chốt thuyết trình,
Ơn Trên hứa sẽ thuận tình ban sau.
Đúng giờ Ngọ lễ hầu hoàn tất,
Hạ phuớn linh đem cất yên bề;
Tiễn đưa quan khách ra về,
Vẹn tròn cuộc lệ ân phê cho hiền.
Đời xảo trá chinh nghiêng loạn lạc,
Đạo chân tình bát ngát hi sinh;
Nếu ai cũng dốc thực hành,
Trời Nam chim phượng hòa bình kêu vang.
Bần
Đạo tạm ngừng bút nơi đây phần giáo lý và sắc lịnh. Bần Đạo truyền xả đàn 15
phút tái cầu, đồng tử Thanh Căn thủ cơ, trấn đàn Bảo Pháp. Phái nữ đặc ân được
một chơn linh đắc đạo giáng đàn thuyết minh đạo pháp, còn phái nam tùy tiện
tham dự để nghe học hỏi cũng tốt.
Sau
cùng Bần Đạo khuyên sở tại Ban Cai Quản nên tổ chức mỗi tháng một lần thuyết
minh giáo lý để cho người đời trong đạo đến dự. Nên trù liệu qui định một ngày
nào đó, sẽ có thơ mời và thông cáo quảng bá trong quảng đại quần chúng.
THI
Canh tàn lời dạy đã nên xong,
Sức khỏe cần ban cho tử đồng;
Từ giã ban ơn chung tất cả,
Hân hoan trở
gót lại non bồng. (Thăng)
o
28.4 ĐỨC HUỆ MINH CHƠN TIÊN giáng cơ
CHIẾU MINH ẨN GIÁO[1] (CẦN THƠ)
23.02.Nhâm
Thìn (18.3.1952)[2]
THI
:
HUỆ tánh tu hành
trở lại ngôi,
MINH tâm giúp Đạo
đã xong đời;
CHƠN hồn phơi
phới miền trung giới,
TIÊN cảnh nương
thân phủi sạch đời.
Miễn
lễ an toạ.
BÀI
:
Giờ nghiêm trọng
ít lời nhắn để,
Cho thiện nam nữ
đệ cõi trần;
Rán mà tu luyện lấy thân,
Hạ ngươn đảo lộn
tinh thần vượt khơi.
Trải mấy lúc cuộc
đời tan tác,
Người có duyên
cởi hạc vinh qui;
Không duyên khác thể như chì,
Rót vào đáy biển mấy
khi phục hồi.
Mắt nhìn thấy
cuộc đời đau khổ,
Toàn nhơn sanh
trong chỗ bùn nhơ;
Biết đâu là bến là bờ,
Là sau là trước
đặng nhờ nương thân.
Những phải rán ân
cần tỉnh thức,
Để thiêng liêng
tin tức giúp cho;
Tuy
không là tiếng hẹn hò,
Mà ngày gặp gở có
đò rước đưa.
Rán lọc lừa,
Chớ say sưa,
Thế sự thừa.
Cõi phù thế đỏng
đưa chớp nhoáng,
Cảnh đổi thay
ngày tháng lại qua;
Thinh thinh nhựt đã xế tà,
Đầu non khỉ hu,
tiếng gà dưới reo.
Rán chơn trèo,
Kẻo buồn teo,
Vững lái lèo.
Lần qua khỏi mấy
đèo khúc hải,
Hẹn gặp nhau mà
lại vui tươi;
Kềm tâm cho vững đạo đời,
Chớ cho lôi cuốn
đổi dời không hay.
Tản văn :
Chị Cả biết tôi không?
Tôi là Hương Quản Lượt ở Ban Thạch
hồi trước. Nay đã được sắc ban giúp cơ tiến hoá cho nhơn loại về phương diện
đạo đức tu hành. Cũng vừa được hay tin Đàn nay có bổn phận phải giúp thuốc cho
anh em theo ý muốn.
Trí tôi lúc trước cũng phàm, nhờ
công phu đắc đạo. Nay trở lại giúp cho em út khá vững đức tin.
Về kiếm chừng : Một chén CỎ CÚ, lấy củ không phơi khô, sao thiệt
vàng, chế dấm rút thiệt khô.
Kiếm củ XUYÊN ĐIỀN THẤT, cây CAM
THẢO NAM, cây TỪ BI, rễ DÀNH DÀNH, rễ Chanh Giấy, trái BÔNG TRANG RỪNG, thứ khô
hiệp với ĐẬU XANH, ĐẬU SĂNG. Tất cả độ chừng 2 cân, phân làm 6 thang, đem sao
khử thổ. Mỗi thang sắc 2 chén nước, còn nữa chén cho hai em mình uống để trừ
nghiệp chướng khí nghe.
Nhớ nội nhà giờ Dậu, rán cúng tụng CỨU
KHỔ[3] trừ tai
hoạ muốn dấy loạn nữa nghe.
Cũng thời 1 toa nầy, mà dụng nhiều
phương như hiền RỰT cũng nên giữ toa nầy để hộ trẻ ở nhà sắp có bịnh, lấy ra
xài nghe.
BA, khá về kiếm y theo đây giúp ĐẾN
dụng thử coi thế nào? Mà BA phải khá cầu nguyện cho Cha mình uống nghe.
Vậy không chi lạ hơn nữa. Còn những
việc phần các vị đến đây nên bình tâm gom góp những khoản đàn trung, hầu xét
mình hay hơn để nguyện riêng những việc không ích chung.
Thôi mãn giờ, từ giả các anh chị em
út qui hồi bổn thất. Xin kiếu./.
o
[1] Chiếu Minh Ẩn Giáo, Rạch
Đội Ngãi, Tân Thới, Tổng Định Thới, Ô Môn Cần Thơ (1953).
[2] Thánh giáo Chiếu Minh Ẩn Giáo tr.74 -77 bản vi
tính 2000.
[3] Đức QUAN ÂM NHƯ LAI giáng dạy các vị đã vào trường
trai phải đọc bài kinh cứu khổ này (3 biến) sau thời cúng.
KINH CỨU KHỔ
Ngưỡng vọng bái THIÊN HOÀNG
THƯỢNG ĐẾ,
Buổi mạt đời phổ tế quần sanh;
Cứu qua khỏi chỗ tan tành,
Dắt về cựu vị tu hành an nơi.
Con cầu nguyện cha Trời ban phước,
Rưới hồng ân Tiên dược cứu con;
Nguyện cùng Thánh Mẫu dắt con,
Bước qua khỏi chỗ tiêu mòn nạn
tai.
Con cầu nguyện Cao Đài cứu rỗi,
Ngày đêm lo sớm tối tu hành;
Không mê bã lợi mùi danh,
Nhờ Thầy rưới phước ân lành cứu
con.
Cầu chư Phật Bồng Non Hải Đảo,
Kíp bước sang lai đáo trở qua;
Cứu con Hồng Lạc an hoà,
Ban ân nhuần gội ma ha cứu trần.
Nguyện chư Phật Thánh Thần hộ mạng,
Vớt chúng con giải tán bàng môn;
Diệt trừ lục đạo cô hồn,
Bước qua khỏi chỗ bàng môn khuấy đời.
Cầu Ngũ Thần năm nơi giáng chỉ,
Dẹp lũ tà độ kỷ chúng sanh;
Nguyện ban linh dược kẻ lành,
Đặng con tránh khỏi chiến tranh buổi cùng.
Niệm : NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT
MA HA TÁT (3 lần)
MA HA TÁT (3 lần)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét